Category Archives: Hoạt động

Sẽ có nghị định riêng về phát triển hợp tác xã nông nghiệp

20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp, hoạt động của khu vực kinh tế hợp tác đã có những chuyển biến vô cùng mạnh mẽ.

60% hợp tác xã được xếp loại khá, tốt

Báo cáo tại hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp, TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) cho biết, đến năm 2020, khu vực kinh tế tập thể, HTX nông nghiệp được đánh giá là đã có bản khắc phục hạn chế, yếu kém kéo dài và đang có nhiều tiềm năng, cơ hội để phát triển.

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 hợp tác xã (HTX) nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp.

Sẽ có nghị định riêng về phát triển hợp tác xã nông nghiệp - Ảnh 1.

TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNPTNT) báo cáo tại hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp. Ảnh: K.N

“Từ năm 2013 đến nay, số lượng HTXNN tăng nhanh, trung bình mỗi năm tăng gần 800 HTX. Không chỉ tăng nhanh về số lượng, mà chất lượng và hiệu hoạt động của các HTXNN cũng đã được cải thiện. Tỷ lệ các HTX NN được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020” – ông Thịnh cho biết.

Cũng theo ông Thịnh, đến nay cả nước có 2.297 HTXNN đã thành lập doanh nghiệp trong HTX, 2.200 HTX ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số trong sản xuất, tương ứng bằng 13% và 12% tổng số HTXNN cả nước. Đặc biệt đã có trên 4.339 HTX nông nghiệp đảm nhận bao tiêu nông sản, bằng 24,5% tổng số HTX nông nghiệp; tỷ lệ này trước năm 2015 chỉ là 5-7%.

Đáng chú ý, các hoạt động dịch vụ của HTX đã góp làm tăng thu nhập nông nghiệp trung bình của hộ thành viên là 20%, trong tổng số trên 5.000 sản phẩm OCOP cả nước, có 39% số sản phẩm thuộc về các tổ hợp tác, HTX.

Tổng vốn hoạt động của các HTX nông nghiệp hiện nay khoảng 29.425 tỷ đồng, bình quân/HTX là 1,61 tỷ đồng (tăng khoảng 800 triệu đồng/HTX so với năm 2013).

Tuy nhiên, theo ông Thịnh, tuy số lượng HTX thành lập mới tăng mạnh, nhưng số HTX hoạt động có hiệu quả còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé. Các dịch vụ sơ chế, chế biến, bảo quản, số lượng các HTX có khả năng liên kết hiệu quả với doanh nghiệp, chế biến và tiêu thụ nông sản cho thành viên HTX và nông dân cũng chưa nhiều, mới đạt 24% tổng số HTX.

“Tình trạng thành lập HTX không xuất phát từ nhu cầu của hộ nông dân mà để hoàn thành tiêu chí nông thôn mới hoặc để thụ hưởng chính sách hỗ trợ của nhà nước vẫn còn. Cơ chế chính sách ban hành nhiều nhưng chưa phù hợp với thực tế, thiếu nguồn lực thực hiện” – ông Thịnh nêu một thực tế.

Sẽ có nghị định riêng về hợp tác xã nông nghiệp - Ảnh 1.
Các thành viên Hợp tác xã thanh long xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông, Tiền Giang cùng nhau trao đổi kinh nghiệm sản xuất. Ảnh: K.N

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có khoảng 18.327 HTX nông nghiệp và 79 liên hiệp HTX nông nghiệp. Tỷ lệ các HTX nông nghiệp được đánh giá xếp loại khá, tốt đã tăng từ 10% (năm 2013) lên 33% (hết năm 2016) và trên 60% năm 2020.

Coi trọng chất lượng hợp tác xã hơn số lượng

Ông Nguyễn Ngọc Bảo – Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết: “Có một thực tế, chi phí logistics trong ngành nông nghiệp vẫn rất cao, chiếm tới 20% giá thành; trong khi 85% nông sản của nông dân chỉ được phân phối qua thương lái, chỉ có 15% nông sản đi thẳng từ ruộng đến nhà máy chế biến. Do vậy, phải tổ chức sản xuất lại theo chuỗi, trong HTX mới có thể nâng cao sức cạnh tranh” – ông Bảo nói.

Sẽ “coi trọng chất lượng HTX hơn là số lượng”, Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị ban hành mới nghị quyết về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” mục tiêu xây dựng quan hệ sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy đoàn kết, tương hỗ và phúc lợi xã hội.

Bộ NNPTNT cũng kiến nghị Chính phủ sắp tới phê duyệt nghị quyết về phát triển HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, tiến tới ban hành Nghị định riêng về phát triển HTX nông nghiệp. 

Tăng cường đầu tư cho hợp tác xã

Bộ trưởng Bộ NNNPTNT Lê Minh Hoan khẳng định, phát triển hợp tác xã sẽ tạo ra sức mạnh đa chiều. “Trong bối cảnh hiện nay, ngoài việc thu hút đầu tư nước ngoài thì cũng tăng cường sức mạnh nội tại. Cùng với sức mạnh của doanh nghiệp thì cũng cần chú ý đến kinh tế tập thể và hợp tác xã. Chúng ta quan tâm đến đại bàng nhưng cũng đừng quên những con chim sẻ” – Bộ trưởng Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Từ thực tế đó, Bộ trưởng Lê Minh Hoan đề nghị các địa phương quan tâm thực sự đến sự phát triển của hợp tác xã, coi hợp tác xã là một phần của kinh tế nông thôn, là một phần không thể tách rời của kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn.

Bộ trưởng Bộ NNPTNT cho biết thêm, Bộ đang chuẩn bị trình Chính phủ chương trình logictics cho ngành nông nghiệp để hạn chế ảnh hưởng của việc đứt gãy chuỗi cung ứng qua những đại dịch, thiên tai, trong đó hợp tác xã sẽ là nhân tố quan trọng trong chuỗi cung ứng.

Nguồn: https://vca.org.vn/se-co-nghi-dinh-rieng-ve-phat-trien-hop-tac-xa-nong-nghiep-a23994.html

Chính phủ đặt mục tiêu GDP năm 2022 tăng 6-6,5%

Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV diễn ra tại Hà Nội sáng 20/10, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trình bày Báo cáo kết quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2021, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn nội dung Báo cáo.

Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV diễn ra tại Hà Nội sáng 20/10, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trình bày Báo cáo kết quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2021, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn nội dung Báo cáo.

BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN

KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2021; DỰ KIẾN KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI NĂM 2022

 (Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính

trình bày tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XV)

_________

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồng chí lão thành cách mạng!

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước!

Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội 54 báo cáo và tờ trình về các lĩnh vực, trong đó có các báo cáo đánh giá đầy đủ, toàn diện về kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội (KTXH) năm 2021, dự kiến Kế hoạch phát triển KTXH năm 2022 và về công tác phòng, chống dịch COVID-19. Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu như sau:

I. TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ PHÁT TRIỂN KTXH NĂM 2021

Năm 2021 diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước; là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021 – 2030 và các kế hoạch 5 năm 2021 – 2025 trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức mới gay gắt hơn. Do tiếp tục xuất hiện các đợt dịch COVID-19 với những biến chủng mới, kinh tế thế giới còn nhiều bất định và tăng trưởng không vững chắc; các nước trong khu vực Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề[1]. Trong nước, dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư ở nhiều địa phương với sự xuất hiện của biến chủng Delta có tốc độ lây lan rất nhanh, nguy hiểm hơn nhiều so với chủng gốc trước đây[2], lại xâm nhập sâu vào các trung tâm kinh tế, đô thị lớn… buộc chúng ta phải áp dụng nhiều biện pháp phòng, chống dịch chưa có tiền lệ, mạnh mẽ, quyết liệt hơn để thực hiện mục tiêu ưu tiên trước hết, trên hết là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân; từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh, sinh kế và đời sống nhân dân.

Trong bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự kịp thời ban hành những quyết sách đặc thù phục vụ phòng, chống dịch, phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội và giám sát hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương và sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trong toàn hệ thống và trên tất cả các lĩnh vực:

1. Tổ chức Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước

Trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại một số địa phương, chúng ta đã chuẩn bị chu đáo và tổ chức rất thành công Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn nhân sự các chức danh lãnh đạo các cơ quan nhà nước, góp phần ổn định chính trị – xã hội, khẳng định sự đồng bộ, tính thống nhất của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, tạo nền tảng vững chắc và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 

2. Về phòng, chống dịch COVID-19

Những tháng vừa qua công tác phòng, chống dịch COVID-19 là ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành quyết liệt, mạnh mẽ của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; với tinh thần vừa có kế thừa và vừa có đổi mới vì chưa có tiền lệ nên phải bám sát yêu cầu thực tiễn; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bổ sung từng bước hoàn thiện các biện pháp phòng, chống dịch phù hợp với biến chủng mới lây lan nhanh, nguy hiểm, khó kiểm soát hơn theo phương châm 5K + vắc-xin + điều trị + công nghệ + đề cao ý thức của Nhân dân. Khi dịch bệnh đã nhiễm sâu tại các đô thị, vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh tổ chức thực hiện theo cách tiếp cận toàn dân, lấy cấp xã là “pháo đài”, người dân là “chiến sỹ” và là trung tâm phục vụ, là chủ thể tham gia phòng, chống dịch; đưa dịch vụ y tế, an sinh xã hội đến cấp cơ sở để người dân tiếp cận kịp thời, hiệu quả hơn và bảo vệ an ninh, an toàn cho Nhân dân[3].

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực, quyết tâm cao và phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, đặc biệt là các lực lượng tuyến đầu chống dịch như y tế, quân đội, công an, các lực lượng cơ sở và sự đoàn kết, đồng tình ủng hộ, tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phòng, chống dịch ngày càng chuyển biến tích cực, hiệu quả hơn[4], nhất là sau khi nâng cấp, kiện toàn Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 và kịp thời điều động một lực lượng lớn chưa từng có, trong một thời gian rất ngắn với khoảng hơn 300 nghìn lượt cán bộ, chiến sỹ các lực lượng y tế, quân đội, công an từ Trung ương và các địa phương khác hỗ trợ cho các địa phương thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội[5]. Đồng thời, đẩy mạnh ngoại giao vắc-xin, thành lập Quỹ vắc-xin phòng chống COVID-19[6], tích cực đẩy mạnh nhập khẩu, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ sản xuất vắc-xin trong nước và phát động chiến dịch tiêm chủng lớn nhất từ trước tới nay với tinh thần “vắc-xin tốt nhất là vắc-xin được tiêm sớm nhất”[7]. Kịp thời động viên, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phòng, chống dịch[8]. Duy trì phù hợp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những nơi đủ điều kiện, an toàn dịch bệnh; hạn chế tối đa đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động.

Có thể nói, chúng ta đã nỗ lực hết sức mình trong điều kiện có thể vì nguồn lực, năng lực hệ thống y tế còn nhiều hạn chế, bất cập, nhất là ở cấp cơ sở[9], hầu hết các vật tư, sinh phẩm, thiết bị y tế, đặc biệt là thuốc, vắc-xin trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu trong điều kiện nguồn cung khan hiếm trên toàn cầu. Vì vậy, kết quả đạt được như Trung ương đã đánh giá: “Các chủ trương, chính sách, biện pháp được triển khai trong thời gian qua là đúng đắn, kịp thời và chỉ đạo, tổ chức thực hiện khẩn trương, quyết liệt, đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay dịch bệnh cơ bản được kiểm soát trên phạm vi toàn quốc và đang thực hiện lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh tại nhiều địa phương”[10].

Điều nổi bật là, trong những thời điểm khó khăn, thử thách gay gắt nhất của dịch bệnh, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy mạnh mẽ, đã xuất hiện rất nhiều tấm gương, nghĩa cử cao đẹp, lay động lòng người. Hàng chục nghìn y, bác sĩ, nhân viên y tế, những “chiến sỹ áo trắng”, phải xa gia đình trong thời gian dài, chấp nhận hy sinh, kiên cường bám trụ, bất chấp hiểm nguy, “chiến đấu” quên mình vì sức khỏe, tính mạng của người dân. Hàng trăm nghìn cán bộ, chiến sỹ quân đội, công an, Tổ COVID cộng đồng bám sát địa bàn, tận tâm, tận lực, không ngại gian khổ, khó khăn ngày đêm, hỗ trợ các địa phương và người dân. Nhiều người sau khi nhiễm và khỏi bệnh tự nguyện tham gia phòng, chống dịch. Trong số đó, có những người đã ra đi mãi mãi. Hệ thống chính trị các cấp, nhất là lực lượng chức năng tại cơ sở đã “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng” phục vụ phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống cho người dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan Dân vận các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể nhân dân, các hội quần chúng, đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo, phóng viên, người dân, doanh nghiệp… trong và ngoài nước đã có nhiều sáng kiến, hành động cụ thể, thiết thực tham gia phòng, chống dịch[11] (về phòng, chống dịch COVID-19 có Báo cáo riêng).

Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao và trân trọng cảm ơn những nỗ lực, hỗ trợ, đóng góp hiệu quả, những nghĩa cử cao đẹp, tận tâm, tận lực hết mình của đồng bào, đồng chí, chiến sỹ và cộng đồng doanh nghiệp, sự giúp đỡ quý báu của đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế trong phòng, chống dịch; đồng thời chia sẻ, cảm thông sâu sắc với những tổn thất, mất mát về người, vật chất và tinh thần mà Nhân dân ta phải gánh chịu do đại dịch COVID-19 gây ra.

3. Về tình hình phát triển KTXH

Nhằm khắc phục những khó khăn do tác động nghiêm trọng của dịch COVID-19, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương vừa phải quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Quốc hội, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Nghị quyết, chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ; phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác trong chỉ đạo, điều hành; tập trung giải quyết khó khăn, tháo gỡ vướng mắc, vượt qua thách thức; nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã được Quốc hội giao.

Ước thực hiện cả năm dự kiến đạt và vượt 8/12 chỉ tiêu chủ yếu đề ra. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 9 tháng chỉ tăng bình quân 1,82%, cả năm ước tăng dưới mức Quốc hội giao[12]; các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm[13]. Thu NSNN 9 tháng đạt trên 80%, cả năm ước vượt dự toán[14], cơ bản bảo đảm nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh và các nhiệm vụ cấp bách khác; bội chi NSNN trong phạm vi dự toán (4% GDP). Huy động vốn đầu tư toàn xã hội ước cả năm đạt khoảng 35% GDP[15]. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 9 tháng đạt trên 240 tỷ USD, cả năm ước tăng khoảng 10,7%. Mặt bằng lãi suất giảm; tỷ giá, thị trường ngoại tệ ổn định, dự trữ ngoại hối nhà nước tiếp tục được củng cố. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia[16]; phấn đấu đến cuối năm có khoảng 68% số xã đạt chuẩn nông thôn mới[17]. Tăng trưởng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt khá[18]; an ninh năng lượng được bảo đảm[19]. Tiếp tục triển khai nhiều dự án kết cấu hạ tầng quan trọng quốc gia[20].

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, góp phần tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh. Chính phủ tập trung hơn cho công tác xây dựng thể chế[21]; phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan của Quốc hội trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung kịp thời các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KTXH.

Triển khai Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội[22], Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19; báo cáo cấp có thẩm quyền và Ủy ban thường vụ Quốc hội để kịp thời triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh[23]; hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp[24]; trình cấp có thẩm quyền sớm triển khai miễn, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí             để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh[25]; đồng thời chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách theo tinh thần vướng mắc ở cấp, ngành nào thì cấp, ngành đó chủ động sửa đổi, hoàn thiện để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn, sớm ổn định đời sống và khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội[26] 

Các hoạt động văn hóa, xã hội được tổ chức theo hình thức phù hợp với tình hình dịch bệnh, nhất là tăng cường các hoạt động trực tuyến. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống người có công[27], đối tượng chính sách, bảo trợ xã hội, giảm nghèo được đẩy mạnh. Công tác an sinh xã hội, hỗ trợ người dân, người lao động và người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh được triển khai tích cực, hiệu quả. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được quan tâm; thể thao thành tích cao đạt một số kết quả ấn tượng[28].

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan tâm; đẩy mạnh kết nối liên thông nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực tuyến[29]. Khuyến khích nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và sản xuất vắc-xin, thuốc, sinh phẩm trong nước[30]. Tổ chức tốt các kỳ thi tốt nghiệp, tuyển sinh cao đẳng, đại học; khai giảng năm học mới, dạy và học trực tiếp, trực tuyến linh hoạt, phù hợp với tình hình dịch bệnh; tích cực triển khai Chương trình “Sóng và máy tính cho em” [31]. Các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được thúc đẩy mạnh mẽ trên các lĩnh vực[32].

Công tác quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu được thường xuyên chỉ đạo. Tích cực tổng kết Nghị quyết của Trung ương về đất đai và Nghị quyết của Bộ Chính trị về khoáng sản[33]; tháo gỡ một số bất cập trong quy định về quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường[34]. Đang trình các cấp có thẩm quyền kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2021 – 2025[35]. Hoàn thành các chỉ tiêu bảo vệ môi trường theo kế hoạch đề ra[36].

Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính tiếp tục được đẩy mạnh. Hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền về việc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước và cơ chế tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, ngành, địa phương gắn với tinh giản biên chế. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính; kiểm tra, thanh tra các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực và dư luận quan tâm. Công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng được thực hiện nghiêm theo đúng tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực[37]. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng; tỷ lệ giải quyết các vụ việc tố cáo đạt 88,3%, vượt mục tiêu đề ra (85%)[38].

Quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Xử lý linh hoạt, phù hợp, hiệu quả các tình huống phức tạp trên biển và tuyến biên giới. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tập trung trấn áp các loại tội phạm[39]; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước[40]. Kịp thời đấu tranh, phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động

Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với tình hình, nhất là ngoại giao vắc-xin[41], ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế; công tác thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân được quan tâm chỉ đạo; qua đó góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển và tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế[42].

Thông tin, truyền thông ngày càng đổi mới tích cực, kịp thời, góp phần tạo đồng thuận xã hội, nhất là trong phòng, chống dịch bệnh và phục hồi, phát triển KTXH. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, cơ quan Dân vận và các tổ chức chính trị – xã hội tăng cường tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin trong Nhân dân; kịp thời ngăn chặn thông tin xấu, độc, xử lý nghiêm các vi phạm.

4. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Trong các báo cáo về KTXH và về công tác phòng, chống dịch COVID-19 gửi đến các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cụ thể những tồn tại, hạn chế trên các lĩnh vực; trong đó có những nội dung chủ yếu sau đây:

Công tác phòng, chống dịch có lúc, có nơi còn bị động, lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhất là giai đoạn đầu khi dịch bùng phát mạnh ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam do biến chủng Delta lây lan nhanh, hết sức nguy hiểm, khó lường, khó kiểm soát; vẫn còn thiếu nhất quán trong triển khai các biện pháp phòng, chống dịch, nhất là trong thực hiện yêu cầu giãn cách xã hội tại cơ sở; việc thực hiện các quy định về đi lại của người dân, lưu thông hàng hóa thiếu thống nhất giữa các địa phương, gây ách tắc, phiền hà cục bộ cho Nhân dân. Tiếp cận nguồn vắc-xin so với một số nước còn chậm, gặp nhiều khó khăn do khan hiếm trên toàn cầu; việc mua vắc-xin chịu nhiều rủi ro, phải chấp nhận các điều kiện áp đặt      của nhà cung cấp. Năng lực y tế, nhất là ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế, bất cập[43], dẫn đến quá tải ở một số địa phương và số ca tử vong cao trong giai đoạn đầu. Việc triển khai công tác cứu trợ, bảo đảm an sinh xã hội tại một số địa bàn, nhất là khu cách ly, phong tỏa còn khó khăn do số lượng người cần được hỗ trợ lên tới hàng chục triệu người[44].

Dự kiến có 4/12 chỉ tiêu KTXH chủ yếu chưa đạt mục tiêu đề ra[45]. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm đạt 5,64%, tuy nhiên quý III giảm 6,17% do ảnh hưởng nghiêm trọng của đợt dịch bùng phát lần thứ tư nên tính chung 9 tháng GDP chỉ tăng 1,42%. Kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro; sức ép lạm phát tăng; xuất khẩu giảm tốc, tiếp tục xu hướng nhập siêu; xuất nhập khẩu phụ thuộc vào khu vực FDI và một số ít thị trường. Xuất hiện tình trạng đứt gãy một số chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động. Thị trường tài chính, bất động sản, chứng khoán có thời điểm tăng nóng. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm, nhất là vốn ODA và vay ưu đãi[46]. Khu vực dịch vụ gặp khó khăn nghiêm trọng, đặc biệt là du lịch, lưu trú, ăn uống, vận tải hành khách[47]. Lao động, việc làm bị ảnh hưởng nặng nề[48].

Tình hình sản xuất kinh doanh và đời sống một bộ phận người dân gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong các khu cách ly, phong tỏa, các địa bàn tâm dịch. Sức chống chịu của nền kinh tế suy giảm mạnh; số lượng người lao động tạm ngừng việc, thiếu, mất việc làm gia tăng. Đời sống tinh thần, tâm lý của người dân bị ảnh hưởng, nhất là tại các địa bàn thực hiện giãn cách xã hội và tăng cường giãn cách xã hội kéo dài. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, tạm ngừng hoạt động hoặc chờ giải thể tăng và ở mức khá cao (mặc dù thấp hơn số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động[49]). Tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro[50].

Cơ cấu giữa các ngành, lĩnh vực và nội ngành, lĩnh vực chuyển dịch chậm[51]; khu vực công nghiệp, dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu lại 3 lĩnh vực trọng tâm còn hạn chế[52]. Cổ phần hóa DNNN chưa đạt tiến độ. Việc xử lý các ngân hàng yếu kém và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ; đang đề xuất cấp có thẩm quyền xin cơ chế xử lý 2 ngân hàng thương mại yếu kém và 5 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả. Công tác lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch còn chậm.

Chất lượng nguồn nhân lực chưa chuyển biến rõ nét. Dạy và học trực tuyến còn nhiều bất cập. Công tác bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng và đấu tranh, phòng, chống tội phạm còn nhiều thách thức cần phải vượt qua. Quốc phòng, an ninh còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp…

Những tồn tại, hạn chế, yếu kém nêu trên có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân khách quan cơ bản là do dịch COVID-19 diễn biến nhanh, phức tạp, ảnh hưởng nghiêm trọng và gây hậu quả nặng nề, khiến 23 địa phương phải thực hiện giãn cách, tăng cường giãn cách xã hội trong thời gian dài, trong đó có các trung tâm kinh tế, vùng động lực tăng trưởng[53]. Đồng thời, còn có các yếu tố từ bên ngoài như: chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, đứt gãy; giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước, phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng cao; việc huy động chuyên gia, nhà quản lý, nhà thầu nước ngoài, máy móc, thiết bị nhập khẩu bị gián đoạn. Dòng vốn đầu tư toàn cầu phục hồi chậm đã ảnh hưởng đến tình hình thu hút FDI[54].

Nguyên nhân chủ quan chủ yếu là do công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện có lúc, có nơi còn lơ là, mất cảnh giác, chủ quan, bị động, lúng túng hoặc cứng nhắc, chưa đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo xử lý các tình huống cụ thể, đột xuất; còn hạn chế, bất cập trong phân tích, dự báo tình hình để xây dựng và triển khai thực hiện các kế hoạch, phương án vừa phòng, chống dịch, vừa phát triển KTXH; năng lực một bộ phận cán bộ còn hạn chế; việc thực hiện các biện pháp, chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương về phòng, chống dịch, lưu thông hàng hóa, tổ chức sản xuất an toàn có lúc, có nơi chưa kịp thời, chưa nghiêm, áp dụng thiếu nhất quán, chưa linh hoạt. Công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa thật sự chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn diễn biến nhanh, khó lường; thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, người dân vẫn còn phiền hà…

5Một số kinh nghiệm

Qua thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu sau đây:

(1) Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, cần phải nhất quán, xuyên suốt, quyết liệt, kịp thời từ Trung ương đến cơ sở; bám sát yêu cầu thực tiễn, kịp thời có kế hoạch, phương án, biện pháp phù hợp để vừa phòng, chống dịch bệnh hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH; tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác và cũng không hoang mang, mất bình tĩnh, nóng vội trong phòng, chống dịch.

(2) Đẩy mạnh rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, mà còn tạo động lực thúc đẩy phát triển; coi trọng sơ kết, đánh giá thực tiễn, kịp thời rút kinh nghiệm và nâng cao năng lực phân tích, dự báo, cảnh báo, nắm chắc tình hình, kịp thời ứng phó, xử lý hiệu quả những vấn đề phát sinh.

(3) Để nắm bắt và giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vướng mắc, yêu cầu cấp bách của thực tiễn, đặc biệt là các tình huống diễn biến nhanh trong phòng, chống dịch và phát triển KTXH đòi hỏi phải nâng cao năng lực của hệ thống chính trị và năng lực quản lý xã hội của Nhà nước, nhất là ở cấp cơ sở.

(4) Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và tinh thần tự lực, tự cường; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, tận dụng cơ hội, tăng cường hợp tác và tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng, tạo sức mạnh tổng hợp trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.

(5) Phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao tính chủ động, tự chủ, ý thức, tinh thần trách nhiệm và trang bị kiến thức, kỹ năng của Nhân dân trong phòng, chống dịch bệnh và phát triển KTXH, đồng thời góp phần củng cố niềm tin trong Nhân dân, tạo sức mạnh đồng thuận xã hội.

6. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu những tháng cuối năm 2021

Tập trung nỗ lực cao nhất cho phòng, chống dịch COVID-19; khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án, kịch bản cụ thể, sát hợp với tình hình thực tế; quyết liệt hành động, triển khai thực hiện hiệu quả, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra theo phương châm nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo, bình tĩnh, kịp thời với mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ sức khỏe, tính mạng của Nhân dân là trên hết, trước hết; thúc đẩy viện trợ, nhập khẩu vắc-xin, nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất trong nước, đẩy nhanh tiến độ bao phủ tiêm vắc-xin, chuẩn bị thuốc điều trị cần thiết, nâng cao năng lực y tế, nhất là công tác điều trị và ở cơ sở; có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, phấn đấu kiểm soát hiệu quả dịch bệnh trên phạm vi toàn quốc để tập trung khắc phục hậu quả của dịch bệnh và khôi phục, phát triển KTXH.

Khẩn trương hoàn thiện, báo cáo cấp có thẩm quyền Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch và Chương trình phục hồi và phát triển KTXH. Rà soát, tháo gỡ ngay khó khăn, vướng mắc về thể chế; giảm thiểu các thủ tục và chi phí sản xuất kinh doanh. Điều chỉnh linh hoạt chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu; kiểm soát chặt chẽ giá cả, thị trường. Tập trung ưu tiên triển khai các cơ chế, chính sách hỗ trợ thiết thực, hiệu quả cho người dân, doanh nghiệp; nhanh chóng khôi phục thị trường lao động do bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19; thúc đẩy phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh; bảo đảm cung ứng, lưu thông hàng hoá thông suốt. Khơi thông mọi nguồn lực cho phòng, chống dịch và phát triển KTXH, bảo đảm an sinh xã hội. Sớm đưa học sinh trở lại trường học an toàn. Củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh; tiếp tục triển khai mạnh mẽ ngoại giao vắc-xin, ngoại giao kinh tế, ngoại giao chính trị; đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin truyền thông.

II. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTXH NĂM 2022

Năm 2022 là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch 5 năm 2021 – 2025. Dự báo tình hình quốc tế, trong nước có những thuận lợi, cơ hội và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Dịch COVID-19 có thể xuất hiện phức tạp, nguy hiểm hơn. Tăng trưởng kinh tế thế giới không đồng đều, chưa vững chắc và thấp hơn năm 2021; rủi ro tiếp tục gia tăng. Trong nước, kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên, nhưng sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút. Nguy cơ chậm phục hồi kinh tế, suy giảm tăng trưởng vẫn còn tiềm ẩn nếu không kiểm soát được dịch bệnh một cách cơ bản để mở cửa trở lại nền kinh tế; rủi ro lạm phát gia tăng; thiên tai, biến đổi khí hậu là nguy cơ luôn tiềm ẩn.

1. Quan điểm chỉ đạo, điều hành

(1) Bám sát quan điểm phát triển theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và hệ thống chính trị; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chính, ngoại lực là cần thiết, quan trọng.

(2) Đặt sức khỏe, tính mạng của người dân lên trên hết, trước hết; từng bước thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19. Phòng, chống dịch là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; tiêm chủng, xét nghiệm, cách ly, điều trị là đặc biệt quan trọng; đề cao ý thức, trách nhiệm, tính tự chủ của người dân, doanh nghiệp trong phòng, chống dịch.

(3) Vừa phòng, chống dịch hiệu quả, vừa phục hồi và phát triển KTXH, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, khôi phục và ổn định thị trường lao động, nâng cao thu nhập, đời sống cho người dân; bảo đảm sự đồng bộ, nhất quán, thông suốt, trách nhiệm trong chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành, các địa phương.

(4) Điều chỉnh chính sách tiền tệ, tài khóa phù hợp, khả thi, linh hoạt,           thích ứng với bối cảnh dịch bệnh có thể kéo dài; tập trung thực hiện 3 trọng tâm: khôi phục, thúc đẩy sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh xuất khẩu; đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công và huy động nguồn lực xã hội, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là hạ tầng chiến lược.

(5) Bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế.

2. Mục tiêu và các chỉ tiêu chủ yếu

(1) Mục tiêu: Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh COVID-19, bảo vệ tối đa sức khỏe, tính mạng của Nhân dân, cùng với tập trung tận dụng tốt cơ hội để thúc đẩy phục hồi và phát triển KTXH với các giải pháp tổng thể kích thích nền kinh tế, hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, không để suy giảm các động lực tăng trưởng trong dài hạn. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế. Tiếp tục ưu tiên rà soát, hoàn thiện về thể chế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là một số công trình trọng điểm quốc gia; đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực gắn với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Chú trọng phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người có công, người nghèo, người yếu thế. Quản lý chặt chẽ đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; làm tốt công tác thông tin, truyền thông, tạo đồng thuận xã hội[55].

(2) Chỉ tiêu chủ yếu: gồm 16 chỉ tiêu chủ yếu về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường[56]; trong đó tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt khoảng 6 – 6,5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; bội chi NSNN so với GDP khoảng 4%.

3. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

(1) Tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi, phát triển KTXH. Triển khai hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch, có lộ trình thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của các cấp, các ngành ngay từ đầu năm 2022. Các địa phương vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn nhưng không trái với định hướng của Trung ương. Tiếp tục mở rộng độ bao phủ, tăng tốc chiến dịch tiêm vắc-xin cho người dân; nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là điều trị và ở cơ sở;          tổng kết thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch. Xây dựng kế hoạch nhập khẩu, sản xuất, tiêm chủng vắc-xin một cách khoa học, an toàn, hiệu quả, hợp lý cho năm 2022 và những năm tiếp theo, trong đó có vắc-xin cho trẻ em. Hoàn thiện thể chế, quy định về phòng, chống dịch, nhất là thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công tư, bảo đảm đủ nguồn lực để thực hiện.

Tập trung thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển KTXH[57] phù hợp, khả thi. Điều chỉnh linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác để vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; vừa hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu, tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh đầu tư, có cơ chế huy động thêm nguồn lực cho phục hồi, phát triển KTXH. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính – ngân sách nhà nước (NSNN), phấn đấu tăng thu[58], triệt để tiết kiệm chi. Huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội và ưu tiên bố trí nguồn NSNN hợp lý cho các nhiệm vụ trọng tâm. Bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế và an toàn hệ thống tín dụng, ngân hàng[59].

(2) Ưu tiên công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, tập trung tháo gỡ khó khăn, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022. Nâng cao chất lượng ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khẩn trương xây dựng, ban hành những văn bản pháp luật liên quan đến phòng, chống dịch và phục hồi, phát triển KTXH[60]. Không ngừng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; chú trọng giải quyết các tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế và hoàn thiện thể chế  phát triển đồng bộ, ổn định, bền vững các loại thị trường[61]. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách cho hoạt động của các mô hình kinh doanh, các sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số quốc gia[62]

(3) Thực hiện thực chất, hiệu quả hơn cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển kinh tế số, xã hội số. Làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, phân bổ và đẩy mạnh giải ngân vốn hiệu quả đầu tư công. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu quốc gia. Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư ngoài nhà nước gắn với tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, ách tắc trong đầu tư, kinh doanh. Phê duyệt các đề án cơ cấu lại tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Quyết liệt, hiệu quả hơn nữa trong cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu và các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả. Tiếp tục cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công hiệu quả, bảo đảm khả năng trả nợ. Đẩy mạnh cơ cấu lại gắn với phát triển các ngành, lĩnh vực[63] theo hướng khai thác hiệu quả không gian tăng trưởng mới và thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn theo lộ trình phù hợp. Có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Phục hồi các chuỗi sản xuất, cung ứng, lao động bị đứt gãy, tổ chức kết nối và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia. Cơ cấu lại, phát triển hiệu quả một số ngành, lĩnh vực quan trọng bị tác động trực tiếp bởi dịch COVID-19[64].

(4) Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là về giao thông, năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, thích ứng với biến đổi khí hậu… Lấy đầu tư công dẫn dắt, kích hoạt đầu tư xã hội, nhất là phương thức hợp tác đối tác công tư. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án kết cấu hạ tầng trọng điểm, hạ tầng thương mại và hạ tầng văn hóa, xã hội; tăng cường kết nối liên vùng, khu vực, quốc tế, nhất là các công trình hạ tầng giao thông quan trọng, trong đó có đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ[65]; dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, các tuyến đường sắt đô thị… Phát triển hệ thống hạ tầng nông nghiệp, nông thôn; các dự án chống sạt lở do biến đổi khí hậu.

(5) Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Phê duyệt, triển khai Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo; đưa học sinh trở lại trường học an toàn với dịch bệnh; đa dạng hóa hình thức tổ chức dạy và học trực tuyến trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp. Triển khai các chiến lược, quy hoạch giáo dục nghề nghiệp. Chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên, người chưa có việc làm. Thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và thu hút nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ[66]; phát triển phong trào đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo trên phạm vi toàn quốc, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể[67].

(6) Thúc đẩy phát triển liên kết vùng, khu kinh tế và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch. Phấn đấu cơ bản hoàn thành việc phê duyệt các quy hoạch trong năm 2022[68]. Đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng động lực tăng trưởng mới. Triển khai các kế hoạch, đề án về phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu; lấy đô thị làm động lực phát triển vùng; phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa đạt 41,5 – 42%.

(7) Gắn kết hài hoà, hợp lý giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội; phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam, chú trọng thực hiện chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030. Tổ chức phù hợp các hoạt động văn hóa, xã hội, nghệ thuật, bảo đảm an toàn dịch bệnh. Thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, giảm nghèo đa chiều, bền vững; gia tăng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, nhất là bảo hiểm tự nguyện[69]. Tiếp tục rà soát, ban hành và triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ người lao động; triển khai các giải pháp phục hồi và ổn định thị trường lao động. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Đẩy mạnh triển khai kịp thời, hiệu quả 3 Chương trình mục tiêu quốc gia[70]. Chú trọng phát triển nhà ở cho công nhân, xây dựng thiết chế văn hoá ở các khu công nghiệp. Quan tâm hơn nữa công tác dân tộc, tôn giáo, vì sự tiến bộ của phụ nữ, gia đình, thanh thiếu niên, chăm sóc người cao tuổi, trẻ em, nhất là trẻ em bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19[71].

(8) Quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện, trình Quốc hội xem xét, ban hành Luật đất đai (sửa đổi). Huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn lực từ đất đai, tài nguyên; chú trọng bảo vệ, phát triển các loại rừng. Khai thác tiềm năng, lợi thế phát triển các ngành kinh tế biển. Nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu[72]. Sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên nước, bảo đảm an ninh nguồn nước. Chú trọng các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện các cam kết theo Thỏa thuận Pa-ri. Phát triển công nghiệp xử lý, tái chế chất thải. Huy động nguồn lực, xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện hiệu quả Nghị quyết              số 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long[73].

(9) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước[74], đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, đề cao trách nhiệm người đứng đầu; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm sai phạm. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện v

Tương lai ngành logistics trong năm 2022

Kho siêu nhỏ, logistics xanh, blockchain là một số xu hướng trong ngành logistics được chuyên gia dự báo sẽ xuất hiện trong năm 2022.

Năm 2017, ngành công nghiệp logistics được định giá 7.641,2 tỷ USD nhưng đã giảm mạnh xuống còn 5.200 tỷ USD vào năm 2020. Đại dịch Covid-19 là nguyên nhân chính gây nên sự đứt gãy của các hoạt động logistics trên toàn thế giới.

Tuy nhiên, sự bùng nổ của thương mại điện tử đã ảnh hưởng tích cực đến ngành logistics. Với tình hình dịch bệnh đang dần giảm bớt và thế giới trở về quỹ đạo phát triển, ngành công nghiệp logistics được dự báo sẽ đạt 12.975,64 tỷ USD vào năm 2027.

Trong năm 2022, ngành này được dự đoán có triển vọng tươi sáng và một số xu hướng mới xuất hiện, đóng vai trò trụ cột.

Ngành công nghiệp logistics được dự báo sẽ đạt 12.975,64 tỷ USD vào năm 2027. Ảnh: Global Trade.
Ngành công nghiệp logistics được dự báo sẽ đạt 12.975,64 tỷ USD vào năm 2027. Ảnh: Global Trade.

Kho siêu nhỏ và logistics chặng cuối

Nhiều kho siêu nhỏ có thể sẽ là xu hướng trong năm 2022. Đó là những không gian nhỏ chuyên dụng, tập trung vào việc đưa hàng tồn kho đến gần khách hàng hơn, đặc biệt ở các khu vực đô thị đông dân cư. Kho siêu nhỏ giúp quá trình logistics chặng cuối nhanh hơn, hiệu quả hơn để đáp ứng việc vận chuyển nhanh chóng.

Hình thức kho này có thể không phù hợp với thực phẩm, đồ uống và dược phẩm. Tuy nhiên, đối với hàng tiêu dùng thông thường và quần áo, kho siêu nhỏ là lựa chọn tuyệt vời.

Nhu cầu với dịch vụ 3PL và 4PL tăng cao

Do sự bùng nổ của thương mại điện tử, nhu cầu về dịch vụ 3PL (logistics bên thứ ba) và 4PL (logistics bên thứ tư) được dự báo sẽ tăng cao. Theo báo cáo của Allied Market Research, thị trường 3PL toàn cầu dự kiến sẽ đạt 1.100 tỷ USD trong 6 năm tới. Nhu cầu tìm đến các công ty 3PL nhiều hơn sẽ giúp quá trình logistics chặng cuối hiệu quả vượt bậc.

Dịch vụ 3PL và 4PL cung cấp nhiều lợi ích như tiết kiệm chi phí, vận chuyển nhanh hơn. Bên cạnh đó, hình thức này cũng có một số nhược điểm như thiếu sự kiểm soát trực tiếp và nhà sản xuất phụ nhiều quá nhiều vào nhà cung cấp dịch vụ logistics. Trong trường hợp xảy ra sơ suất, trách nhiệm sẽ thuộc về bên sản xuất chứ không phải nhà cung cấp dịch vụ logistics.

Big Data và IoT

Bằng các phương pháp phân tích và dự báo sự kiện có khả năng xảy ra trong tương mai, Big Data (dữ liệu lớn) mạng lại nhiều lợi ích đối với ngành logistics.

IoT (Internet of Things) là công cụ kết nối các thiết bị khác nhau bằng các cảm biến nhúng, cho phép trao đổi dữ liệu liên tục qua internet. Dự báo, IoT sẽ ngày càng được sử dụng nhiều hơn bởi ngành công nghiệp logistics cần giải pháp sáng tạo để giải quyết vô số thách thức.

Bên cạnh đó, Big Data với IoT sẽ gây tốn kém trong quá trình triển khai ban đầu và nguồn nhân lực cần được đào tạo kỹ càng để tiếp cận công nghệ.

Tự động hóa

Theo công ty tư vấn quản lý McKinsey, tự động hóa sẽ nằm trong chương trình nghị sự hàng đầu của ngành logistics, do ba yếu tố: Nhu cầu ngày càng tăng từ các nhà bán lẻ trực tuyến, sự thiếu hụt lao động và những tiến bộ công nghệ.

Các kho hàng cao cấp sẽ được vận hành tự động hoàn toàn. Các nhà quản lý được trang bị kính AR (thực tế tăng cường) đảm bảo hiển thị đầy đủ toàn bộ hoạt động và sự phối hợp giữa robot và con người.

Đến năm 2030, người ta ước tính hầu hết hoạt động logistics có thể được tự động hóa, AI đảm nhận nhiệm vụ làm các công việc lặp đi lặp lại của con người.

Logistics xanh

Thể hiện trách nhiệm với môi trường đang trở thành xu hướng của tất cả các ngành công nghiệp, bao gồm cả logistics. Logistics xanh là một trong những xu hướng sẽ được áp dụng trong thời gian tới.

Theo đó, các công ty logistics sẽ sử dụng bộ đếm thời gian để đo lường và giám sát việc sử dụng nguồn tài nguyên như điện, nước và khí đốt trong cơ sở của họ; sử dụng phần mềm để tính toán lượng khí thải carbon. Xe vận chuyển hàng cũng sẽ chạy bằng điện và năng lượng mặt trời. Bao bì sẽ được chế tạo có khả năng phân hủy

Blockchain

Blockchain là phương pháp lưu trữ và chuyển giao thông tin được nhắc đến nhiều trong thời gian qua. Trong đó, hồ sơ của giao dịch được duy trì trên một số máy tính được liên kết với nhau.

Đối với ngành công nghiệp logistics, blockchain có thể tích hợp tất cả thành phần vào một nền tảng duy nhất. Thậm chí, quá trình thanh toán và lập hóa đơn cũng có thể được thực hiện cùng một hệ thống.

Người máy

Trong nhiều năm gần đây, ngành công nghiệp logistics sử dụng ngày càng nhiều người máy trong quá trình phân loại hàng hóa.

Ngoài ra, nhiều công ty cũng áp dụng công nghệ xe giao hàng không người lái để vận chuyển các sản phẩm nhỏ. Cũng như người máy, các phương tiện không người lái đang có xu hướng trở nên phổ biến hơn.

Người máy không thể thay thế con người nhưng bằng cách thực hiện các nhiệm vụ lặp đi lặp lại đã được con người thực hiện trước đó, người máy sẽ phần nào giải quyết được một số khâu làm việc. Từ đó, con người có thể tập trung vào các nhiệm vụ khác có giá trị cao hơn.

Thanh Thư (theo Global Trade)

Làm sao để hợp tác xã không bỏ lỡ ‘chuyến tàu’ chuyển đổi số

Làm sao để hợp tác xã không bỏ lỡ ‘chuyến tàu’ chuyển đổi số

Chuyển đổi số được xác định là một trong những hướng đi quan trọng để thúc đẩy các HTX nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững, thích ứng với thị trường và biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, làm sao để các HTX có thể ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất và quản lý hiệu quả thì vẫn còn nhiều việc phải làm.

Làm sao để hợp tác xã không bỏ lỡ ‘chuyến tàu’ chuyển đổi số

Đó cũng chính là nội dung chính tại Hội thảo “Phát triển HTX nông nghiệp thông minh, chuyển đổi số thích ứng với biến đổi khí hậu tại Việt Nam” được Liên minh HTX Việt Nam phối hợp với Tổ chức Oxfam tại Việt Nam tổ chức ngày 15/10.

“Cái khó bó cái khôn”

Theo Báo cáo của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, năm 2020, cả nước có 17.000 HTX nông nghiệp và 68 liên hiệp HTX; tỷ lệ HTX hoạt động hiệu quả khoảng 70%. Cả nước có 1.718 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất, chiếm 4,8% tổng số HTX, tăng 7,2 lần so với giai đoạn 2011 – 2015.

Phát biểu tại hội thảo, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho biết, một số HTX đã chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị, áp dụng hợp lý kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, công nghệ thông tin vào quản lý và sản xuất. Từ đây có thể thấy, các HTX đã quan tâm đến các hoạt động đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật nói chung và công nghệ số nói riêng.

Một câu chuyênh không thể không nhắc đến đó là ngay trong mùa vải tại Bắc Giang vừa qua, tuy dịch Covid-19 đúng vào thời điểm thu hoạch nhưng nhờ thực hiện mã số hóa vùng trồng, mã cơ sở đóng gói vải thiều mà không ít HTX Bắc Giang đã tiếp cận được với khách hàng nước ngoài.

Bà Nguyễn Thị Thành Thực (Hiệp Hội Nông nghiệp số Việt Nam) cho biết, dịch Covid-19 khiến các thương nhân, doanh nghiệp Trung Quốc, Nhật Bản không thể qua được Việt Nam. Nhưng nhờ thực hiện số hóa vùng trồng, mã cơ sở đóng gói, doanh nghiệp nước ngoài hoàn toàn nắm bắt được quy trình sản xuất vải của người dân, HTX, từ đó yên tâm đặt hàng với số lượng lớn mà không phải sang trực tiếp.

DSC06149-ok-2744-1634293068.jpg
Theo các chuyên gia, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp HTX thích ứng với thị trường và biến đổi khí hậu.

Tuy đạt được một số kết quả khả quan nhưng nhìn nhận khách quan có thể thấy, quá trình chuyển đổi số tại khu vực kinh tế tập thể, HTX diễn ra còn rất chậm, quy mô đầu tư nhỏ, trình độ công nghệ còn đơn giản.

Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), trong số 1.718 HTX ứng dụng công nghệ cao chỉ có 240 HTX sử dụng phần mềm quản lý và sản xuất thông minh, chiếm 1,5%, chủ yếu tập trung ứng dụng công nghệ ở tưới tiêu, hệ thống nhà lưới, dán tem truy xuất nguồn gốc.

Khảo sát của Liên minh HTX Việt Nam tại 3 tỉnh Hòa Bình, Quảng Trị, Sóc Trăng, với tổng số 153 HTX và sử dụng thang đo 5 bậc cũng cho thấy: Trong hoạt động quản lý, điều hành HTX, tỷ lệ HTX sử dụng máy tính kết nối internet là 2,6/5; tỷ lệ HTX sử dụng máy tính để lưu trữ văn bản và quản lý một cách có hệ thống là 2,52/5, tỷ lệ HTX sử dụng phần mềm kế toán là 2,85/5, tỷ lệ HTX sử dụng điện thoại để quản lý, điều hành là 2,5/5.

Còn trong lĩnh vực xúc tiến thương mại, tỷ lệ thành viên HTX sử dụng Zalo, Facebook cá nhân để quảng cáo, bán hàng là 2,52/5; tỷ lệ HTX tham gia các trang thương mại điện tử là 2,05/5; tỷ lệ HTX thực hiện thanh toán điện tử chỉ có 1,96/5 và tỷ lệ HTX sử dụng phần mềm quản lý kho chỉ chiếm 1,88/5.

Có thể thấy, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý và điều hành HTX chỉ ở mức cơ bản. Tỷ lệ HTX chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin còn thấp, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho đầu ra nông sản còn chưa được quan tâm. Hoạt động xúc tiến thương mại thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin của HTX còn chưa đa dạng, chủ yếu là sử dụng các trang mạng xã hội (đơn giản, chi phí thấp).

PGS. TS Phạm Quang Hà, Chủ tịch Hội đồng Khoa học, HTX nông nghiệp số Việt Nam cho biết, thực tế đã có những HTX mạnh dạn đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao và đạt được những hiệu quả khả quan. Tuy nhiên, việc mới có 240 HTX sử dụng phần mềm quản lý và sản xuất thông minh đến thời điểm hiện nay là vẫn còn khiêm tốn.

Thừa nhận vấn đề này, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cũng cho rằng, việc ứng dụng công nghệ trong chuyển đổi số vào khâu chế biến, quản lý, kinh doanh sản phẩm chưa thực sự được HTX chú trọng.

“Điều này khiến các HTX nông nghiệp rơi vào tình trạng không quản lý hiệu quả các nguồn lực và hạn chế sự tương tác giữa các tác nhân liên quan (như cơ quan quản lý nhà nước, khách hàng, doanh nghiệp…) đến hệ sinh thái”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho biết.

Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng trên là do việc thực hiện chuyển đổi số đòi hỏi nguồn vốn lớn, trong khi nguồn kinh phí của HTX có hạn. Chẳng hạn việc đầu tư một hệ thống máy ozone kết hợp xử lý nước thải trong nuôi tôm có giá trên 1 tỷ đồng (tùy diện tích sản xuất). Hay việc đầu tư khoảng 3000m2 nhà kính có gắn hệ thống cảm biến thông minh cũng có chi phí trung bình khoảng 1,7 tỷ đồng. Trong khi để đáp ứng nhu cầu ứng dụng công nghệ cao, các HTX phải huy động vốn từ nhiều nguồn, nhưng hầu hết các HTX không thể vay vốn tín dụng, không đảm bảo được các điều kiện tín dụng tài sản thế chấp; phương án kinh doanh… Khoảng 4,35% HTX tổ chức hoạt động tín dụng nội bộ, cho thành viên vay vốn, chủ yếu theo hình thức tín chấp.

Bên cạnh khó khăn về tài chính, nhiều HTX còn sản xuất nhỏ lẻ, kém hiệu quả và thiếu liên kết chuỗi giá trị. Đây chính là rào cản trong phát triển các HTX nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, ứng dụng chuyển đổi số.

Hiệu quả từ “mua chung, bán chung”

Là một quốc gia nông nghiệp với khu vực nông thôn chiếm tới 65% dân cư, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 13,96% trong GDP, việc ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện chuyển đổi số là một điều vô cùng quan trọng nhằm thúc đẩy các HTX nói riêng, ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung.

Công nghệ số giúp các HTX quản lý thời gian, giảm sử dụng nước và hóa chất, sản xuất các loại cây trồng có năng suất cao, đem lại lợi nhuận cho nông dân, bảo tồn tài nguyên, đồng thời giảm tác động từ phân bón hóa học. Do đó, cần có những giải pháp ứng dụng thích hợp để đưa công nghệ số thực sự là một trong những nhân tố thúc đẩy HTX và nền nông nghiệp Việt Nam phát triển, thích ứng với xu thế toàn cầu hóa.

Ông Phạm Quang Tú, Phó Giám đốc Quốc gia, Tổ chức Oxfam tại Việt Nam cho biết, nông dân sản xuất quy mô nhỏ, HTX sản xuất quy mô nhỏ rất dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh. Đây chính là những đối tượng cần được hỗ trợ chuyển đổi số để đưa sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu và thị trường.

Để giải quyết khó khăn về vốn, theo các chuyên gia, HTX nên thực hiện chuyển đổi số theo hình “mua chung, bán chung” để hạn chế chi phí. Chẳng hạn việc mua các loại máy móc lên tới hàng tỷ đồng thì một HTX khó có thể làm được, nhưng việc liên kết nhiều HTX trên cùng một xã, một huyện có thể giải quyết điều này.

PGS. TS Phạm Quang Hà cho biết nếu một chiếc máy phun thuốc trừ sâu không có người lái có giá hàng trăm triệu đồng, một HTX mua về cũng chỉ dùng khi vào vụ thu hoạch. Nhưng nếu liên kết với HTX khác ở trong và ngoài tỉnh có thể giúp giảm chi phí, lại nâng cao được giá trị của loại máy này.

DSC06151-ok-6406-1634293068.jpg
Hội thảo “Phát triển HTX nông nghiệp thông minh, chuyển đổi số thích ứng với biến đổi khí hậu tại Việt Nam” được tổ chức theo hình thức trực tuyến.

Chia sẻ về vấn đề này, bà Nguyễn Thành Thực đã dẫn chứng về mô hình sản xuất của HTX heo rừng Tây Nguyên (Đăk Lăk). Bà Thực cho biết, ban đầu rất nhiều hộ dân trong cùng tỉnh có kinh nghiệm nuôi heo rừng nhưng để liên kết chăn nuôi tập trung theo mô hình HTX sẽ khó khăn vì mỗi hộ một nơi. Tuy nhiên, khi ứng dụng nền tảng công nghệ số tích hợp truy xuất nguồn gốc, người dân, cán bộ quản lý, doanh nghiệp có thể liên kết với nhau thông qua ứng dụng điện tử. Các hộ có thể sản xuất ở nhiều địa bàn khác nhau mà không lo bị giả mạo hàng hóa.

“Việc này sẽ giúp HTX tiết giảm các chi phí sản xuất, kết nối thị trường thuận tiện hơn. Bên cạnh đó, công tác giám sát của cơ quan nhà nước cũng được thực hiện trực tiếp, giúp minh bạch thông tin”, bà Thực chia sẻ.

Ngoài việc “mua chung, bán chung”, một giải pháp được các chuyên gia đưa ra là cần có những ứng dụng công nghệ, các app hỗ trợ sản xuất thông minh phù hợp, tiết giảm chi phí để phù hợp với nhu cầu của các HTX, nhất là khi hiện nay, phần lớn cán bộ, thành viên HTX là người lớn tuổi.

“Chỉ tính riêng việc thuê tên miền để làm trang web, mỗi năm, HTX phải chi trả hàng triệu đồng. Hay đơn giản là việc thành lập một fanpage cũng khiến HTX phải đầu tư tiền triệu, thậm chí là cả chục triệu đồng. Đây là chi phí khá lớn với các HTX nông nghiệp hiện nay”, bà Thực cho biết.

Trước chia sẻ của các chuyên gia, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng, theo Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nông nghiệp được xác định là một trong 8 ngành ưu tiên chuyển đổi số. Các HTX nói riêng, ngành nông nghiệp nói chung lúc này sẽ không thể đặt trong bối cảnh đơn lẻ, đứng một mình mà phải nằm trong cấu trúc chung của nền kinh tế số, để đồng tốc với sự phát triển chung của công nghiệp 4.0.

Để làm được điều này, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo đề nghị, Oxfam trong thời gian tới cần tích cực hỗ trợ nâng cao chất lượng nhân lực tại các HTX nông nghiệp; hỗ trợ hạ tầng thiết bị cơ bản phục vụ chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong các HTX nông nghiệp.

Đi cùng với đó là hỗ trợ HTX sử dụng một số nền tảng ứng dụng chuyển đổi số và thành lập HTX cung ứng dịch vụ công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp.

“Đề nghị Oxfam cùng với Liên minh HTX Việt Nam và các đơn vị thiết kế xây dựng Đề án chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong khu vực HTX Việt Nam để huy động tài chính từ các tổ chức và quỹ quốc tế tổ chức triển khai thực hiện đề án này”, Chủ tịch Nguyễn Ngọc Bảo nhấn mạnh.

Huyền Trang

Bộ trưởng NN&PTNT: Săn đón ‘đại bàng’ nhưng phải ‘lót ổ’ cho hợp tác xã, tổ hợp tác

Bộ trưởng NN&PTNT: Săn đón ‘đại bàng’ nhưng phải ‘lót ổ’ cho hợp tác xã, tổ hợp tác

Nhắc tới câu chuyện chúng ta có quan tâm “đại bàng” nhưng cũng đừng quên những “con chim sẻ”, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT cho rằng, săn đón “đại bàng” nhưng phải “lót ổ” cho hợp tác xã, tổ hợp tác. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào khu vực hợp tác xã.

Bộ trưởng NN&PTNT: Săn đón ‘đại bàng’ nhưng phải ‘lót ổ’ cho hợp tác xã, tổ hợp tác

Đây là nhấn mạnh của Bộ trưởng Lê Minh Hoan tại Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã (HTX) năm 2012 trong lĩnh vực nông nghiệp do Bộ NN&PTNT tổ chức sáng ngày 19/10.

Hoi-nghi-HTX-1376-1634611303.png
Hội nghị Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Theo ông Hoan, trong phục hồi kinh tế sau dịch cần nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trong nước, không bị lệ thuộc quá nhiều vào kinh tế nước ngoài.

Lấy ví dụ từ xây dựng nông thôn mới của Hàn Quốc, ông Hoan cho biết, chữ đầu tiên trên lá cờ xây dựng nông thôn mới của nước này là hợp tác, làm sao người nông dân sáng ngủ dậy có suy nghĩ trồng, nuôi con gì thì phải hợp tác với ai, làm gì để hợp tác? Không có sức mạnh riêng lẻ mà thắng được sức mạnh tập thể.

“Vừa rồi, tôi có nói chuyện với chuyên gia Trung Quốc, họ cũng phát triển kinh tế nông nghiệp ở nông thôn rất mạnh”, ông Hoan nói.

Hay vừa qua tại chuyến thăm châu Âu cùng Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho hay ở các nước phát triển phát triển rất mạnh khu vực HTX. Họ khuyên Việt Nam đừng quên lãng khu vực HTX.

Theo đó, Bộ trưởng NN&PTNT cho rằng, đừng nhìn vào mức đóng góp của HTX vào ngân sách nhà nước, bởi bản chất HTX không phải là doanh nghiệp. Mà cần nhìn HTX là một mô hình đa giá trị, có thể tác động tích cực tới đời sống kinh tế – xã hội khu vực nông thôn, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.

“HTX không chỉ phát triển kinh tế đơn thuần mà còn kích hoạt tình yêu nông thôn của người dân. HTX nông nghiệp vẫn có thể làm du lịch, tạo động lực cho các em học sinh, sinh viên học chuyên ngành nông nghiệp để trở về đóng góp làng quê”, ông Hoan chia sẻ.

Bộ trưởng Lê Minh Hoan: “Chúng ta không thể chậm trễ, lần lữa trong việc quan tâm đến HTX nông nghiệp. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào HTX”.

Theo Bộ trưởng NN&PTNT, vừa qua, bà con từ thành phố trở về quê là quy luật tất yếu, nhưng rõ ràng khuấy động làng quê có nhiều sức sống để nông nghiệp phát triển tốt hơn. Vì vậy, Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, Bộ NN&PTNT đưa vào thêm một trong những nền tảng là phát triển kinh tế nông thôn, chứ không chỉ xây dựng cầu, đường; thông qua hình thức hợp tác làng nghề, câu lạc bộ khuyến nông, tổ hợp tác, HTX.

Trước vai trò của HTX, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT nhấn mạnh trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương, địa phương là cần chăm lo cho HTX. Bộ NN&PTNT sẽ trình Chính phủ chương trình đầu tư hạ tầng logistics cho các vùng HTX, tổ hợp tác, hạn chế đứt gãy khi có rủi ro bên ngoài. Từ đó, bà con nông dân sẽ thấy lợi ích cả về đầu vào và đầu ra khi tham gia HTX, chứng minh nền nông nghiệp không còn bán thô mà tích hợp đa giá trị.

“Bản thân chuyển đổi số, đầu tư kết cấu hạ tầng, bảo hiểm nông nghiệp, đưa khoa học công nghệ cũng không thành công nếu không có HTX”, ông Hoan nói.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT nhấn mạnh một lần nữa: “Ban đầu đừng nhìn HTX nông nghiệp ở lợi ích kinh tế mà cần nhìn rộng ra tác động của khu vực này đến xã hội, đa giá trị hơn. Chúng ta không thể chậm trễ, lần lữa trong việc quan tâm đến HTX nông nghiệp. Chưa cần tháo gỡ thể chế từ cấp Trung ương, các địa phương có thể thông qua nguồn lực của mình để đầu tư vào HTX. Sự hỗ trợ đồng bộ từ Trung ương tới địa phương cho khu vực kinh tế tập thể, HTX là chỗ dựa cho phát triển HTX trong giai đoạn tới.

Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, ra đời cách đây 10 năm, 20 năm nhưng Nghị quyết 13 và Luật HTX năm 2012 đã đánh giá đúng tình hình, chỉ ra được yêu cầu, định hướng trong xây dựng phát triển kinh tế tập thể, HXT trong lĩnh vực nông nghiệp.

Trong thực tiễn, ngày càng xuất hiện nhiều và đa dạng các mô hình HTX hoạt động hiệu quả, trình độ cán bộ quản lý, HTX nông nghiệp được nâng cao rõ rệt, đội ngũ cán bộ quản lý được trẻ hóa. Số lượng, cơ cấu HTX nông nghiệp từ chỗ chiếm tỷ lệ nhỏ hơn trong tổng số HTX, hiện đã vươn lên đạt 13.350 HTX nông nghiệp trong tổng số 26.500 HTX toàn quốc, bằng 70%.

Tuy nhiên, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cũng cho rằng, quá trình tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 13 còn chậm, tại nhiều thời gian, thời điểm chưa quyết liệt. Tuy số lượng HTX thành lập mới tăng mạnh, nhưng số HTX hoạt động hiệu quả còn thấp; quy mô thành viên và doanh thu các HTX nông nghiệp còn thấp, thiếu bền vững; quy mô thành viên và doanh thu của các HTX nông nghiệp còn nhỏ bé.

Trước tình hình trên, Bộ NN&PTNT đề nghị Trung ương, Bộ Chính trị ban hành mới Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” với trọng tâm và mục tiêu quan trọng là xây dựng quan hệ sản xuất mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy đoàn kế, tương hỗ và phúc lợi xã hội.

Thy Lê

“Mở khóa” cho công tác kiểm toán hợp tác xã

Để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tăng niềm tin của thành viên và đối tác, kiểm toán HTX là rất cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn những vướng mắc; đặc biệt, việc thiếu những quy định pháp lý rõ ràng về kiểm toán đang gây khó cho các HTX.

Dù đã có 70% HTX hoạt động hiệu quả, nhưng theo nghiên cứu, hiện chỉ có các Quỹ tín dụng nhân dân là thực hiện kiểm toán theo quy định của Nhà nước. Còn tại các HTX, công tác kiểm toán mới chỉ tập trung ở những HTX sản xuất quy mô lớn ở Tiền Giang, Long An, Hậu Giang…

Thiếu quy định pháp lý

Vấn đề chưa có nhiều HTX thực hiện kiểm toán là do những quy định pháp lý về hoạt động kiểm toán đối với mô hình HTX ở nước ta vẫn chưa hoàn thiện.

Tiêu biểu tại Điều 61 về Thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của Luật HTX 2012 chỉ quy định “Việc kiểm toán HTX, Liên hiệp HTX do Chính phủ quy định”.

Hay tại điều 22 của Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ cũng chỉ ghi: “HTX thực hiện kiểm toán theo quy định của pháp luật”; “HTX có thành viên là pháp nhân phải thực hiện kiểm toán bắt buộc”; “khuyến khích HTX thực hiện kiểm toán nội bộ” hay “HTX, Liên hiệp HTX có thành viên là pháp nhân phải thực hiện kiểm toán bắt buộc”.

Có thể thấy, theo quy định hiện hành thì chưa có quy định về phạm vi kiểm toán, tần suất kiểm toán, hình thức kiểm toán, chủ thể kiểm toán và giá trị kiểm toán HTX. Các quy định này cũng rất chung chung và chưa phù hợp với thực tế.

75354958-2485225731758957-2414-4094-9753
Hiện, những HTX sản xuất hiệu quả, quy mô lớn đã chú trọng đến công tác kiểm toán.

Cụ thể, nếu quy định “HTX, Liên hiệp HTX có thành viên là pháp nhân phải thực hiện kiểm toán bắt buộc” thì chưa chính xác, bởi theo bà Nguyễn Thị Hải Yến, cán bộ tự vấn của Liên đoàn HTX Cộng hòa Liên bang Đức (DGRV), phần lớn HTX ở Việt Nam không có thành viên là pháp nhân (doanh nghiệp, tổ chức liên kết theo chuỗi giá trị xin góp vốn làm thành viên HTX).

Còn vấn đề “khuyến khích” – “tự nguyện kiểm toán”, theo bà Yến, đây có vẻ là một ý tưởng hay nhưng điều gì mà tuân thủ một cách tự nguyện thường không đạt được hiệu quả như mong muốn. Bởi thực tế chỉ những HTX nào xếp loại tốt, sản xuất kinh doanh thực sự hiệu quả mới tự nguyện kiểm toán.

Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng thì cần phải có những tiêu chuẩn pháp lý rõ ràng, tối thiểu và nhất định cho tất cả các HTX. Bên cạnh đó, cần có đơn vị thực hiện kiểm toán các tiêu chuẩn đó thường xuyên.

Ông Trần Văn Cứng, Chủ tịch Liên minh HTX An Giang, cho biết vì mang tính khuyến khích, tự nguyện nên tính pháp lý về kiểm toán HTX rất thấp. Các HTX không có cơ sở để thực hiện kiểm toán như về thời gian, loại hình, mức độ kiểm toán, hay đơn giản hơn là thủ tục kiểm toán…

“Để đáp ứng một số vấn đề về hợp tác, vay vốn, chỉ có một vài HTX quy mô lớn ở An Giang mới thực hiện kiểm toán 2 năm/lần và đều phải thuê kiểm toán từ bên ngoài”, ông Cứng cho biết.

Tăng niềm tin từ minh bạch thông tin

Theo các chuyên gia, kiểm toán là vô cùng quan trọng trong phát triển HTX, nhất là trong thời kỳ hội nhập. Muốn làm ăn, liên kết với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài, vấn đề minh bạch là quan trọng nhất nhằm tăng niềm tin với đối tác. Minh bạch thông tin cũng sẽ tạo được lòng tin của các thành viên vào mô hình kinh tế tập thể và với cơ chế quản lý của Nhà nước. Vì vậy, con đường hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu này chính là thực hiện kiểm toán HTX.

Đến nay, đã có một số HTX thực hiện kiểm toán hiệu quả như HTX thanh long Tầm Vu (Long An), HTX nông nghiệp Bình Tây (Tiền Giang), HTX nông nghiệp Tân Mỹ Chánh (Tiền Giang)…

Nhờ thực hiện kiểm toán, HTX nông nghiệp Mỹ Quới (Cái Bè) đã được Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (VnSAT) hỗ trợ xây dựng nhà kho có diện tích 800m2, sức chứa khoảng 1.000 tấn lúa và 2 cống đập, 1 trạm bơm điện phục vụ cho cánh đồng 450 ha. Các thành viên cũng hoàn toàn nắm được công tác thu, chi định kỳ để chủ động bổ sung nguồn vốn góp.

Ông Nguyễn Văn Nguyền, Giám đốc HTX Mỹ Quới, cho biết kiểm toán giúp HTX có thể công khai hoạt động sản xuất kinh doanh nội bộ, tạo thuận lợi cho HTX trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay phát triển sản xuất – kinh doanh cũng như hợp tác tiêu thụ nông sản hàng hóa… Đến nay, HTX liên kết với Công ty TNHH MTV Phước Lộc Thiên Hộ bao tiêu sản phẩm.

Thực tế cho thấy, mô hình HTX ở nhiều nước như Đức, Nhật, Thái Lan… hoạt động rất tốt và hiệu quả. Có được kết quả này là do các nước này rất chú trọng hoàn thiện các tiêu chuẩn pháp lý về kiểm toán HTX.

Tiêu biểu như tại Đức, từ năm 1882, nhiều HTX bị phá sản và Chính phủ từ chối loại hình HTX. Nhưng từ năm 1889, Hiệp hội HTX đã đấu tranh quyết liệt và Luật HTX ra đời với Điều 53, quy định 12 điều khoản về Kiểm toán.

Luật HTX ở Đức quy định rõ rằng, HTX với tổng tài sản dưới 2 triệu EUR thì sẽ kiểm toán 2 năm/lần. Còn HTX với tổng tài sản trên 2 triệu EUR thì sẽ thực hiện kiểm toán hàng năm. Từ năm 2017 đến nay, các HTX siêu nhỏ (tổng tài sản dưới 350.000 EUR, doanh thu dưới 700.000 EUR, số nhân viên dưới 10 người) cũng phải thực hiện kiểm toán nhưng chỉ phải kiểm toán toàn diện 4 năm/lần.

Nhờ thực hiện kiểm toán, nhiều HTX ở Đức đã “vượt mặt” cả các doanh nghiệp. Cụ thể là dù khủng hoảng kinh tế hay dịch Covid-19 xảy ra nhưng từ khi có quy định về kiểm toán và thực hiện kiểm toán đều đặn, tỷ lệ HTX bị giải thể chỉ còn khoảng 0,1%, trong khi không ít doanh nghiệp đã bị phá sản.

Bà Anja Muthmann, Liên đoàn HTX Đức (DGRV), cho biết Luật HTX của nước này quy định rất rõ về các nội dung kiểm toán HTX như: Đối tượng thực hiện kiểm toán, đối tượng được kiểm toán, làm thế nào để kiểm toán HTX, báo cáo kiểm toán, trách nhiệm của Đại hội thành viên HTX, quy định về lệ phí; hình thức pháp lý, quy chế của các Liên đoàn Kiểm toán… “Đây là cái khung để các cơ quan quản lý và HTX áp dụng, thực hiện”, bà Anja Muthmann chia sẻ.

Từ thực tế phát triển kinh tế tập thể, HTX và những kinh nghiệm của các nước, Liên minh HTX Việt Nam cũng đang tích cực tham gia góp ý cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư để chỉnh sửa và bổ sung các nội dung về kiểm toán HTX trong Luật HTX 2012. Theo Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Văn Thịnh, quy định pháp lý về kiểm toán HTX được xem là chìa khóa đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh, kiểm soát mọi hoạt động, từ đó đưa đến những tư vấn giúp HTX phát triển bền vững, bảo đảm các nguyên tắc và giá trị.

Để thực hiện điều này, Liên minh HTX Việt Nam đã kết hợp với các tổ chức, Liên đoàn của các nước trên thế giới thực hiện nâng cao nhận thức về kiểm toán cho các HTX. Cùng với đó là thành lập và đào tạo tổ kiểm toán HTX, tập huấn nghiệp vụ kiểm toán HTX…

Liên minh HTX Việt Nam cũng tổ chức triển khai thí điểm kiểm toán HTX tại một số tỉnh nhằm tạo tác động lan tỏa và thành lập Trung tâm kiểm toán HTX để hỗ trợ các HTX tại các tỉnh, thành trong công tác kiểm toán.

Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Thịnh cũng cho rằng, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp lý, sự vào cuộc của Liên minh HTX Việt Nam, các HTX cũng cần chủ động nâng cao sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý và đầu tư cho công tác kế toán. Đây sẽ là những nền tảng để HTX thực hiện kiểm toán đúng theo định kỳ, hạn chế tình trạng phá sản, giải thể.

Huyền Trang

Phóng sự ảnh: Hội nghị “Kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu trái cây của hợp tác xã với các thị trường nước ngoài tiềm năng”

Chiều ngày 08/10/2021, tại Hà Nội, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam tổ chức Hội nghị “Kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu trái cây của hợp tác xã với các thị trường nước ngoài tiềm năng”, ông Nguyễn Ngọc Bảo, Bí thư đảng đoàn, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Đổi mới, Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đồng chủ trì Hội nghị.

Hội nghị diễn ra với hình thức trực tuyến, điểm cầu chính tại Hội trường của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam kết nối với các điểm cầu trong và ngoài nước. Hội nghị có sự tham dự của 300 đại biểu trong và ngoài nước gồm Tham tán thương mại các nước Anh, Trung Quốc, Nga, Australia, Đức, Hà Lan, Ấn Độ, Nhật Bản, Pháp, Pakistan, Các tiểu vương quốc Ả rập thốn nhất, hơn 200 hợp tác xã sản xuất trái cây trong nước và 40 doanh nghiệp xuất nhập khẩu trái cây trong và ngoài nước.

 “Để các HTX sản xuất trái cây tiếp cận trực tiếp với thị trường thế giới, Liên minh HTX Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu trái cây của các HTX với các thị trường xuất khẩu tiềm năng năm 2021; kết nối đồng thời với nhiều thị trường trong nước và nước ngoài. Hội nghị sẽ là cầu nối cho các HTX sản xuất trái cây và các sản phẩm từ trái cây có cơ hội được mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nắm bắt được thông tin chính xác và nhanh nhất về các thị trường xuất khẩu tiềm năng, gặp gỡ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trái cây trong và ngoài nước, vừa duy trì các thị trường xuất khẩu truyền thống như Trung quốc, Nhật bản, châu Âu, vừa đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường mới như Tây Á, Nam Á, để từ đó có định hướng cho các HTX từ khâu sản xuất nhằm đảm bảo quy cách về sản lượng và chất lượng sản phẩm” – Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam chia sẻ 

Quang cảnh Hội nghị “Kết nối tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu trái cây của hợp tác xã với các thị trường nước ngoài tiềm năng” tại điểm cầu Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, số 6 Dương Đình Nghệ

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết để triển khai hiệu quả các giải pháp phục hồi và phát triển nền kinh tế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 theo các Nghị quyết của Chính phủ; khu vực Kinh tế tập thể, HTX phát huy tinh thần yêu nước và giá trị “Hợp tác vì cộng đồng thịnh vượng, dân chủ không có đói nghèo”, tự lực, tự cường vượt qua khó khăn, thách thức, khôi phục phát triển sản xuất kinh doanh trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19.

“Chính sách nhập khẩu trái cây của Hà Lan nhìn chung giống của Châu Âu, nhưng có một số điểm khắt khe hơn một chút như dư lượng thuốc trừ sâu, chỉ tiêu tránh sử dụng chất gây ô nhiễm… “Bà Võ thị Ngọc Diệp – tham tán thương mại VN tại Hà Lan chia sẻ tại Hội nghị

“Trong thời gian tới để làm tốt hơn nhiệm vụ được giao, thương vụ Đức sẽ tăng cường các hoạt động xúc tiến truyền thống. Tiếp tục phối hợp với các cơ quan bộ ngành liên quan, đưa sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam là rau hoa quả nói riêng, thâm nhập sâu hơn vào thị trường Đức, các kinh phân phối bán lẻ của thị trường Đức và của người Việt tại các trung tâm thương mại.”  Ông Bùi Vương Anh – Tham tán thương mại Việt Nam tại Đức chia sẻ tại Hội nghị

“Mặc dù ảnh hưởng dịch Covid-19, nhưng HTX vẫn đảm bảo thực hiện bao tiêu sản phẩm của người dân bình thường như trước đây. Hiện nay, chỉ riêng trên địa bàn tỉnh Hậu Giang, HTX đang bao tiêu được 200ha với các loại trái cây như chanh không hạt, bưởi, cam, dưa hấu, khóm, trong đó chanh không hạt là 150ha. Tùy từng loại mà có giá khác nhau, như đối với chanh không hạt thu mua từ 4.000-9.500 đồng/kg.” Ông Trần Bá Sơn – Giám đốc HTX trái cây sinh học chia sẻ tại Hội nghị

“Năm 2021 Công ty TNHH Mia Fruit kết hợp cùng Liên Minh Hợp Tác Xã Việt Nam cùng nâng cấp và xây dựng thêm hệ thống bản đồ hợp tác xã nhằm tổng hợp thông tin của tất cả các HTX trên lãnh thổ Việt Nam. Mục đích của việc kết hợp này là kết nối các HTX và các doanh nghiệp có nhu cầu kinh doanh nông sản, trái cây để đẩy mạnh đầu ra cả trong và ngoài nước và xây dựng hệ thống chuỗi cung ứng nông sản phiên bản online.” Bà Nguyễn Ngọc Huyền – Tổng giám đốc Công ty TNHH Mia Fruit chia sẻ tại Hội nghị

Lễ ký kết Hợp tác tiêu thụ Trái cây giữa các HTX và doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại điểm cầu Hà Nội

Lễ ký kết Hợp tác tiêu thụ Trái cây giữa các HTX và doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại các điểm cầu trên cả nước

“Tình hình Covid-19 đang có những bước tiến triển mang tính tích cực, hội nghị diễn ra thành công thì đây là những hoạt động hết sức ý nghĩa góp phần phát triển kinh tế. Liên minh Hợp tác xã Việt Nam sẽ tổng hợp đầy đủ những thông tin thu thập được qua Hội nghị lần này, để hỗ trợ tư vấn và hiện thực hoá các ý kiến của đại biểu. Trong thời gian tới, và những tháng cuối năm, có nhiều việc làm cần phải bắt tay thực hiện ngay nhằm hỗ trợ bà con HTX, việc nắm bắt thông tin thị trường, nhu cầu của bà con HTX là điều cần thiết, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam sẽ cùng bà con HTX tháo gỡ những khó khăn, đặc biệt là trong bối cảnh những khó khăn của đại dịch Covid-19 thời gian qua.” Ông Nguyễn Ngọc Bảo, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam kết luận Hội nghị

Lê Huy – Quỳnh Trang

Khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững

Phát biểu tại cuộc gặp giữa Thủ tướng Chính phủ với Doanh nhân ngày 12/10, Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Cường cho biết: Đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân trong thực hiện chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của nền kinh tế, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.

Đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội

Phát biểu tại buổi gặp mặt của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính với Doanh nhân ngày 12/10, đại diện cho Hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, ông Nguyễn Mạnh Cường Phó chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết: Đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân trong thực hiện chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của nền kinh tế, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã (HTX) với hơn 26.000 HTX, 106 Liên hiệp HTX và gần 120.000 tổ hợp tác, thu hút hơn 8 triệu thành viên chủ yếu là hộ gia đình ở địa bàn nông thôn, đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.

Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Nguyễn Mạnh Cường phát biểu tại cuộc gặp Thủ tướng Chính phủ gặp mặt Doanh nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10. Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Theo khảo sát của hệ thống Liên minh HTX Việt Nam, tỷ trọng sản lượng lương thực, thực phẩm và nông sản khác do các HTX, tổ hợp tác sản xuất so với tổng sản lượng của từng địa phương, từng ngành hàng của cả nước chiếm khoảng 25%-75% (lúa gạo chiếm 70%, trái cây 55%….); vận tải hàng hóa và hành khách bằng đường bộ và đường thủy chiếm từ 15% – 50% tổng khối lượng lưu chuyển hàng hóa và hành khách hàng năm; về thương mại – dịch vụ, Liên hiệp HTX thương mại thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Coop) cùng với hơn 2.000 HTX thương mại – dịch vụ chiếm gần 40% thị phần siêu thị hiện đại chưa kể bán lẻ.

Nông sản của các hợp tác xã đã chiếm lĩnh được thị phần bán lẻ tại các siêu thị. Ảnh: Internet

Các HTX, tổ hợp tác đã góp phần quan trọng đảm bảo an ninh, lương thực, cung cấp lương thực, thực phẩm và hàng hóa thiết yếu khác đáp ứng nhu cầu của người dân, nhất là ở địa phương thực hiện giãn cách xã hội; ổn định giá cả thị trường trong nước, đảm bảo an sinh xã hội, nhất là địa bàn nông thôn. Với vai trò nòng cốt, tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên, thời gian qua, hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã tập trung huy động các nguồn lực trong và ngoài hệ thống, thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ HTX về xúc tiến thương mại, vốn tín dụng, khoa học công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực quản trị, tay nghề….; hướng dẫn HTX tiếp cận chính sách hỗ trợ của Nhà nước để khắc phục khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.

Phát biểu tại buổi gặp, ông Nguyễn Mạnh Cường chia sẻ, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền đã rất quan tâm, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã rất mạnh mẽ, quyết liệt trong các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, cộng đồng hợp tác xã với hàng loạt nghị quyết được ban hành trong thời gian qua, do đó HTX sẽ phát huy bản chất kinh tế – xã hội nhân văn sâu sắc, tự lực tự cường cùng đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân phát triển kinh tế-xã hội, cùng cả nước vượt qua những khó khăn do dịch bệnh.

Khu vực kinh tế tập thể, HTX luôn nhận được sự quan tâm hỗ trợ phát triển

“Thời gian qua, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, cấp ủy và chính quyền địa phương đã luôn quan tâm hỗ trợ phát triển khu vực kinh tế tập thể, HTX trong mối liên kết chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị với cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo, điều hành rất quyết liệt, mạnh mẽ, linh hoạt, kịp thời có các quyết sách, giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho doanh nghiệp, HTX, người lao động và người dân, như Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Nghị quyết số 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 và nhất là Nghị quyết số 105/NQ-CP ngày 9/9/2021….” – Ông Nguyễn Mạnh Cường nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Mạnh Cường cũng cho biết thêm, khu vực kinh tế tập thể, HTX tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước, chung sức, đồng lòng, phát huy bản chất của tổ chức kinh tế mang tính nhân văn sâu sắc, vì con người, lấy con người làm trung tâm, phát huy giá trị “Hợp tác vì cộng đồng thịnh vượng, dân chủ không có đói nghèo”, tự lực, tự cường, đồng hành cùng cộng đồng Doanh nghiệp, Doanh nhân vượt qua khó khăn, thách thức, phát triển sản xuất, kinh doanh, chung sức chiến thắng dịch bệnh, đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Phát biểu tại cuộc gặp mặt, Thủ tướng Chỉnh phủ Phạm Minh Chính bày tỏ cảm ơn, tri ân đội ngũ doanh nhân luôn đồng hành cùng đất nước với những nỗ lực, đóng góp quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, góp phần thực hiện khát vọng xây dựng đất nước hùng cường và thịnh vượng. Cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân đã đóng góp tích cực, kịp thời, hiệu quả, cùng cả nước kiềm chế, kiểm soát được đợt bùng phát dịch COVID – 19 lần thứ 4 hết sức nguy hiểm. “Chúng ta làm được điều này là nhờ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, sự cố gắng, nỗ lực, đoàn kết, thống nhất của toàn dân, sự vào cuộc, đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp”- Thủ tướng nhấn mạnh.

Cuộc gặp do Văn phòng Chính phủ (VPCP) phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức với sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính. Cùng dự cuộc gặp mặt có Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Trần Văn Sơn, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp Nguyễn Hoàng Anh, Chủ tịch VCCI Phạm Tấn Công, lãnh đạo các Bộ ngành trung ương. Đặc biệt, dự cuộc gặp mặt có 72 đại biểu đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, doanh nhân, hợp tác xã thuộc các thành phần kinh tế.

Quang Huy

Nền Nông nghiệp cần phát triển tích hợp “Đa Giá Trị”

LTS: Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ra từ 4-7/10/2021. Báo Nông nghiệp Việt Nam trân trọng giới thiệu tới độc giả. Tựa trong bài do tòa soạn đặt.

Bối cảnh vô cùng khó khăn do đại dịch Covid-19 khiến kinh tế đất nước rơi vào giai đoạn khủng hoảng nhất trong nhiều năm, dù đã được dự báo phần nào từ những diễn biến phức tạp, khó lường của dịch bệnh toàn cầu. Có thể nhận định rằng, ngay từ năm đầu tiên của nhiệm kỳ mới, khó khăn nhiều hơn thuận lợi, thách thức nhiều hơn cơ hội, tác động sâu rộng không chỉ trong ngắn hạn, mà kéo dài qua trung hạn, thậm chí đến dài hạn.

Song, luôn còn đấy tín hiệu lạc quan, tích cực đến từ điểm tựa niềm tin của doanh nghiệp và người dân về sự phục hồi kinh tế sau đại dịch trong điều kiện bình thường mới: “kinh tế vĩ mô vẫn ổn định, lạm phát ở mức thấp, các cân đối lớn được bảo đảm”. Mục tiêu kép, dù không dễ thực hiện, không dễ cân bằng các giải pháp, nhưng không còn sự lựa chọn nào khác. Với sự chỉ đạo sát sao của Đảng, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự đồng hành của Quốc hội, sự chia sẻ, thấu hiểu từ cộng đồng doanh nghiệp và người dân, dịch bệnh dần được kiểm soát, sản xuất, kinh doanh từng bước khôi phục, đời sống xã hội bắt nhịp bình thường mới.

Trước nhiều thách thức, ngành Nông nghiệp tiếp tục là “trụ đỡ” của nền kinh tế. Luỹ kế 9 tháng đầu năm 2021, tốc độ tăng trưởng đạt 2,74%. Riêng trong quý ba, mặc dù dịch bệnh diễn ra trên diện rộng ở 19 tỉnh, thành phía Nam, giá trị gia tăng của ngành vẫn tăng 1,04%, so với quý ba năm 2020. Lương thực, thực phẩm vẫn đảm bảo nguồn cung và góp phần vào an sinh xã hội ở các đô thị lớn trong điều kiện giãn cách xã hội. Kim ngạch xuất khẩu nông – lâm – thuỷ sản đạt trên 35,5 tỷ đô la Mỹ, tăng 17,7% so với cùng kỳ, và dự báo có thể đạt và vượt mục tiêu cả năm. Khi các đô thị lớn thực hiện giãn cách xã hội, nhiều lực lượng lao động cùng lúc trở về quê, nhất thời tạo ra áp lực dịch chuyển, bảo đảm san sinh lớn, nhưng đồng thời, cũng cho thấy vai trò hậu phương quan trọng của nông thôn.

Tuy nhiên, cũng như các ngành, lĩnh vực khác, ngành Nông nghiệp cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, khó tránh khỏi, từ các vấn đề nội tại lẫn các yếu tố khách quan: biến đổi khí hậu, biến động thị trường và biến chuyển xu thế tiêu dùng của thế giới. Giá vật tư, nguyên liệu đầu vào, chi phí logistics tăng mạnh, khiến lợi nhuận của nông dân và doanh nghiệp không tương xứng với giá trị tăng trưởng của ngành.

Thực tế cho thấy, nền nông nghiệp vẫn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, tính tự chủ chưa cao, năng lực, trình độ của doanh nghiệp trong nước, hợp tác xã nông nghiệp chưa theo kịp ưu thế, tìm lực của các nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài.

Việc đứt gãy chuỗi cung ứng khiến giá cả sụt giảm do đầu cầu bị thu hẹp. Trước những quy định mới của các thị trường nhập khẩu, nông sản trong nước cần thời gian để điều chỉnh, thích ứng. Thị trường rộng mở, nhờ các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới, nhưng vẫn còn đấy những rào cản kỹ thuật lẫn phi kỹ thuật.

Để ngành Nông nghiệp tiếp tục đảm trách vai trò trụ đỡ bền vững, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030 đang được dự thảo và lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước và sẽ trình trong cuối quý tư năm 2021. Chiến lược này sẽ hiện thực hoá các quan điểm chỉ đạo và định hướng của Đại hội XIII của Đảng. Đó là, Chiến lược nhấn mạnh đến đổi mới mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp dựa trên động lực “Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Đó là, Chiến lược hướng đến mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới. Đó là, Chiến lược xoay quanh ba trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “Nông thôn hiện đại”, “Nông dân thông minh”.

Chiến lược cũng tiếp tục đưa ba đột phá chiến lược từ Nghị quyết Đại hội XII và được bổ sung trong Nghị quyết Đại hội XIII về: (1) Thể chế: Tập trung “Tháo gỡ thể chế – Khơi thông nguồn lực” như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tăng cường hợp tác công tư trong tổng thể phát triển gắn kết, hài hoà “Nhà nước – Thị trường – Xã hội”(2) Nguồn nhân lực trong nông nghiệp, trong đó có lực lượng nông dân, hướng đến nông dân thông minh, chuyên nghiệp, được huấn luyện nghề nông và cả ngành nghề phi nông nghiệp; (3) Hạ tầng: Phát triển hệ thống hạ tầng phục vụ chuyển đổi nông nghiệp, kinh tế nông thôn, vừa hạn chế đứt gãy chuỗi cung ứng, vừa hạn chế tình trạng tổn thất sau thu hoạch.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên trí tuệ nhân tạo, kết nối vạn vật và dữ liệu lớn, chứng kiến người máy, dây chuyền tự động hoá thay thế con người làm trong rất nhiều lĩnh vực. Khi ấy, đã có nhiều dự báo về sự thay đổi ngành nghề trong tương lai, nghề nào sẽ biến mất, nghề nào tồn tại, nghề nào mới ra đời.

Trong đại dịch Covid-19, theo một luận điểm thì: “Khi mọi người tranh luận xem ngành nào là thiết yếu và không thiết yếu, thì có một điều không cần phải tranh cải: Nông nghiệp. Bởi lẽ, Nông nghiệp đạt đủ các chuẩn mực của một ngành thiết yếu. Không có thức ăn chúng ta không có gì cả”.

“Tình trạng thiếu hụt lương thực, thực phẩm, nhất là sản phẩm tươi sống khuyến khích nhiều người quan tâm tham gia vào nghề nông, vào lĩnh vực nông nghiệp”. Bên cạnh những khó khăn gây ra tình trạng đứt gãy tạm thời chuỗi cung ứng nông sản do ảnh hưởng của dịch bệnh mở ra cơ hội cho việc cân nhắc, xem xét cơ chế hợp tác công – tư trong đầu tư, quản lý, vận hành, khai thác hạ tầng phục vụ nông nghiệp như: hạ tầng logistics, trung tâm phân loại, bảo quản nông sản, cảng cá, sàn giao dịch nông sản,…

Sự tham gia, phối hợp giữa nhà nước và tư nhân có thể giúp tối ưu hoá nguồn lực, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ khó khăn, nâng cao năng lực thích ứng linh hoạt trong các điều kiện, tình huống khác nhau. Cùng với đó, có thể từng bước thực hiện thí điểm mô hình cụm liên kết ngành hàng nông sản, để không chia tách nông nghiệp, công nghiệp và du lịch thành 3 lĩnh vực riêng lẻ, mà tạo thành các mảnh ghép chặt chẽ, hài hoà trên từng không gian sản xuất, không gian sinh hoạt cộng đồng dân cư nông thôn.

Tín hiệu đáng mừng là các đối tác quốc tế bày tỏ sự sẵn lòng đồng hành với ngành nông nghiệp trong việc nâng cao năng lực quản trị, dịch vụ, hạ tầng, các khâu hậu cần, logistics ở cấp độ nhỏ tại các hợp tác xã, liên hợp tác xã, như Vương quốc Bỉ đang hỗ trợ những kho bảo quản, sơ chế… tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tại buổi làm việc gần đây với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, cũng bày tỏ thiện ý sẵn sàng cung cấp những hỗ trợ kĩ thuật, như chuỗi kho bảo quản lạnh cho nông sản Việt Nam để hướng đến thị trường châu Âu đang rộng mở nhờ Hiệp định EVFTA.

Đây cũng là tiền đề khuyến khích liên kết vùng, mở ra không gian kinh tế vùng, với sự tham gia tích cực và vai trò năng động của cộng đồng doanh nghiệp. Các địa phương tương đồng về điều kiện, đặc điểm, ngành hàng có thể liên kết liên địa giới hành chính, trong không gian kết nối kinh tế mở như một thực thể kinh tế hoàn chỉnh thay vì bó hẹp trong không gian hành chính từng địa phương. Không gian phát triển càng lớn quy mô kinh tế càng lớn và khi ấy chúng ta sẽ nghĩ lớn hơn và hành động mạnh mẽ hơn. Cùng với vai trò kiến tạo nền tảng, không gian phát triển của chính quyền các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp đảm trách vai trò đề xuất, đóng góp chính sách, tư vấn kinh tế, kết nối thị trường, dẫn dắt xu hướng phát triển, lan toả sự thay đổi, giá trị tích cực đến người dân và cộng đồng.

Nhiều dự báo, sau đại dịch, sẽ xuất hiện việc “Gia tăng sự quan tâm dành cho an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng”. Đây là cơ hội cho một quốc gia có tiềm năng phát triển nông nghiệp như Việt Nam. Nghị quyết Đại hội XIII xác định tầm nhìn: “đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển có nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển có nền công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

Với tầm nhìn như vậy, chúng ta cần tiếp cận khái niệm an ninh lương thực theo hướng “An ninh lương thực, thực phẩm và cân bằng dinh dưỡng”. Đây là vấn đề đã được Bộ Chính trị khẳng định trong Kết luận 81-KL/TƯ, phù hợp với quá trình chuyển đổi cây trồng vật nuôi thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan và giữ gìn hệ sinh thái bền vững. Trong đó, cần bảo đảm khả năng và quyền tiếp cận của người dân đối với lương thực, thực phẩm an toàn, chất lượng, bảo đảm dinh dưỡng.

Gợi mở từ “Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050” vừa được Chính phủ ban hành, ngành Nông nghiệp xác định yêu cầu chuyển đổi từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế”, hướng tới những “giá trị xanh” được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh”. Song song với mục tiêu duy trì, cải thiện năng suất, sản lượng, nền nông nghiệp cần phát triển tích hợp “đa giá trị”.

Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị gia tăng tối ưu trên một đơn vị diện tích canh tác, trong điều kiện đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp diện tích và chịu tác động từ biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh. Tích hợp đa giá trị là tạo ra giá trị tăng thêm dựa trên khai thác hiệu quả các nguồn lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thay cho thực trạng ngành nông nghiệp tăng trưởng dựa trên thâm dụng lao động, thâm dụng tài nguyên thiên nhiên. Tích hợp đa giá trị là kết tinh tài nguyên bản địa, với các kỹ thuật, công nghệ chế biến tiên tiến, và cả những bản sắc văn hoá – xã hội, tạo thành thương hiệu cho sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Tích hợp đa giá trị là kết nối hài hoà nông nghiệp truyền thống với các mô hình nông nghiệp hữu cơ, thông minh, tuần hoàn,…

Với cách thức tiếp cận “đa giá trị”, các công trình hạ tầng, các đề án, kế hoạch phục vụ, hỗ trợ phát triển nông nghiệp, hay mở rộng ra đến tất cả các vấn đề của ngành nông nghiệp, đều có thể được quan sát, nhìn nhận trong tổng thể của sự kết nối, của tính đa công dụng, đa chức năng, đa mục tiêu.

Ví dụ như ở ngành lâm nghiệp, một khu rừng không chỉ có giá trị từ ngành khai thác, chế biến gỗ, mà còn được xem là một nguồn lực thiên nhiên, với tính “đa dụng” của nó. Cùng với giá trị từ cây gỗ thô, rừng còn là không gian bảo tồn các động vật hoang dã, những loài thảo mộc tự nhiên, dược liệu có giá trị dinh dưỡng cao, là nơi trải nghiệm cảnh quang thiên nhiên, là nơi gìn giữ tính đa dạng sinh học, hấp thụ khí carbon, giúp cân bằng hệ sinh thái.

Những giá trị gần như vô hình đó tạo ra không gian sống hài hoà, thân thiện giữa con người với thiên nhiên. Phải chăng đấy mới chính là ý nghĩa của khái niệm “rừng vàng” được gửi gắm với nhiều hàm nghĩa sâu sắc?

Quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp còn đặt ra yêu cầu nhất định về khả năng tiếp cận, trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Khoa học, kỹ thuật có ý nghĩa quan trọng trong nông nghiệp, nhưng chưa phải tất cả. Khi chưa thể ứng dụng được ngay những thành tựu tiên tiến nhất, chúng ta vẫn có thể nhìn nhận những điều đang có theo một cách nhìn mới, góc độ mới. Người đi sau luôn có lợi thế của người đi sau. Đó là rút ra những bài học để tận dụng thời gian, thu gần khoảng cách. Đó là tận dụng tối đa nguồn lực hiện hữu, để mang đến những giá trị mới cho những điều vốn tưởng chừng không có nhiều giá trị – những điều sẵn có trong tự nhiên, gần gũi với sinh hoạt ngày thường, thân thiện với môi trường. Từ đấy, những phụ phẩm nông nghiệp không còn bị lãng phí, mà được làm mới giá trị, trở thành một sản phẩm hiện diện trong vòng kinh tế nông nghiệp tuần hoàn.

Một trong những nguồn lực quan trọng đóng góp vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong nông nghiệp nằm ở các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã nông nghiệp. Nhiều nền nông nghiệp phát triển là đều quan tâm, đầu tư vào hợp tác xã nông nghiệp. Có ý kiến khẳng định rằng: “Hợp tác xã, hợp tác xã, hợp tác xã, hay không là gì cả!”. Sức mạnh của “mua chung, bán chung” giúp tối ưu hoá chi phí đầu vào, giảm thiểu thất thoát, lãng phí, chia sẻ rủi ro mùa vụ,… Nhân Hội nghị này, tôi đề nghị các đồng chí lãnh đạo địa phương thật sự quan tâm đến Hợp tác xã, một thiết chế kinh tế – xã hội nông thôn. Khi nói về Hợp tác xã, Bác Hồ đã đúc kết: “Nhóm lại thành giàu, chia ra thành khó”.

Nếu tất cả trông chờ vào nguồn vốn hữu hạn của Nhà nước thì sẽ không bao giờ đáp ứng đủ cho nhu cầu vô hạn của xã hội. Huy động vốn từ cộng đồng, hợp tác xã, doanh nghiệp đối tác sẽ là một giải pháp cơ bản, bền vững trong nền kinh tế thị trường mà cả thế giới đã làm trăm năm nay thay vì chỉ trông cậy vào sự hỗ trợ từ Nhà nước.

Vấn đề cần quan tâm là những chương trình, chính sách hỗ trợ phù hợp, giúp nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động của các mô hình kinh tế hợp tác, của các hợp tác xã nông nghiệp. Theo đấy, hợp tác xã, nông dân – thành viên hợp tác xã được trang bị đầy đủ kiến thức lập phương án sản xuất kinh doanh, mang tính khả thi, xây dựng bảng cân đối tài chính minh bạch, thuyết phục được người tham gia góp vốn và thu về lợi nhuận, lợi ích.

Để đạt được những mục tiêu đề ra, bên cạnh sự vào cuộc tích cực, chủ động của toàn Ngành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn luôn cần đến sự định hướng, lãnh đạo của Đảng, của Chính phủ, sự đồng hành, ủng hộ của các bộ, ban ngành, địa phương. Để không chỉ là “trụ đỡ” của nền kinh tế khi đất nước ở vào thời điểm khó khăn, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quyết hướng đến khát vọng vươn tầm, đủ sức trở thành “thước đo mức độ bền vững của quốc gia”.

Nội dung: Lê Minh HoanThiết kế: Trọng ToànẢnh: Tùng Đinh – Lê Hoàng Vũ – CTV

Nguồn: Nền nông nghiệp cần phát triển tích hợp ‘đa giá trị’ (nongnghiep.vn)

Xây dựng Hà Nội thành trung tâm điều phối nông sản

Chương trình phối hợp giữa Bộ NN-PTNT và TP. Hà Nội đặt mục tiêu giúp Thủ đô trở thành trung tâm kết nối, điều phối nông sản gắn kết bền vững với các địa phương.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam (phải) và Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền đồng chủ trì Hội nghị. Ảnh: Phạm Hiếu.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam (phải) và Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền đồng chủ trì Hội nghị. Ảnh: Phạm Hiếu.

786 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn

Ngày 5/10, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam và Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền đồng chủ trì Hội nghị trực tuyến với 33 tỉnh, thành phố góp ý Dự thảo Chương trình “Đảm bảo an toàn thực phẩm (ATTP), nâng cao chất lượng nông lâm thủy sản giữa TP. Hà Nội với các tỉnh, thành giai đoạn 2021-2025”.

Theo Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền, từ năm 2015, Bộ NN-PTNT đã hỗ trợ Hà Nội triển khai Đề án xây dựng và phát triển chuỗi cung ứng nông lâm thủy sản an toàn trong toàn quốc giai đoạn 2015 – 2020, thông qua Chương trình phối hợp phát triển chuỗi cung ứng rau thịt an toàn cho Hà Nội giai đoạn 2016 – 2020.

Kết quả sau 5 năm thực hiện, Hà Nội và 21 tỉnh, thành phố đã kết nối sản xuất, quản lý chất lượng chủ động, tích cực hơn; xây dựng và phát triển được 786 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn (chiếm 48% của cả nước); Hà Nội đã xây dựng, phát triển được 141 chuỗi (trong đó có 56 chuỗi sản phẩn động vật và 85 chuỗi sản phẩm thực vật).

Đặc biệt, trong thời gian Hà Nội thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch Covid-19, thành phố đã phối hợp chặt chẽ với 45 tỉnh, thành phố (1.130 cơ sở) của cả nước để cung cấp cho Hà Nội trung bình trong 1 tháng trên 92.000 tấn rau, củ, trái cây, trên 13.000 tấn thịt gia súc gia cầm; hơn 31 triệu quả trứng; hơn 11 tấn thủy sản và gần 233 tấn gạo, nông sản thực phẩm khác.

Qua đó, góp phần đảm bảo nhu cầu thực phẩm nông lâm thủy sản của Hà Nội, góp phần cho thành quả trong công tác phòng, chống dịch bệnh của thành phố.

Theo ông Nguyễn Mạnh Quyền, Hà Nội và 21 tỉnh, thành phố đã xây dựng và phát triển được 786 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn. Ảnh: Phạm Hiếu.
Theo ông Nguyễn Mạnh Quyền, Hà Nội và 21 tỉnh, thành phố đã xây dựng và phát triển được 786 chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn. Ảnh: Phạm Hiếu.

Kết nối giao thương 33 tỉnh, thành

Theo bà Trần Thị Phương Lan, Quyền Giám đốc Sở Công thương Hà Nội, hiện khả năng sản xuất nông nghiệp của Thành phố mới chỉ đáp ứng được từ 30-65% nhu cầu sử dụng cho hơn 10 triệu người dân. Lượng hàng hóa còn thiếu được kết nối, khai thác từ các địa phương và nhập khẩu nên rất cần sự hợp tác, liên kết giao thương giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt vào mỗi dịp lễ Tết.

“Thời gian qua, dịch Covid-19 đã làm giảm sức tiêu thụ mặt hàng thực phẩm của thành phố. Tuy nhiên thực tế lại cho thấy những sản phẩm đáp ứng được chất lượng ATTP đều dễ dàng tiêu thụ, thậm chí thiếu hụt, không đủ để bán”, bà Phương Lan chia sẻ.

Bà Trần Thị Phương Lan cho biết thêm, Sở Công thương Hà Nội sẵn sàng kết nối giao thương với 33 địa phương cũng như kết nối trực tiếp với các vùng sản xuất để có thể nắm bắt được nhu cầu và chất lượng sản phẩm của các tỉnh. Từ đó, hệ thống phân phối của Hà Nội sẽ có đơn đặt hàng từng sản phẩm tới từng địa phương, từng doanh nghiệp để đảm bảo chuỗi sản xuất tiêu thụ bền vững.

Đưa ra đề xuất, bà Lan cho rằng, Chương trình phối hợp giữa Bộ NN-PTNT và TP. Hà Nội cần xây dựng tiêu chuẩn về ATTP cho các chuỗi. Các doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng cần đáp ứng được những tiêu chuẩn đó. Từ đó chất lượng của các chuỗi cũng ứng cũng được nâng cao hơn.

Ngoài ra, Hà Nội cần đa dạng hóa kênh phân phối để các doanh nghiệp có thể chủ động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm an toàn. Dịch bệnh đã làm ảnh hưởng đến những kênh phân phối truyền thống nên thời gian tới Thành phố cần chuyển đổi linh hoạt các hình thức kết nối sang các kênh thương mại điện tử.

Nguồn: Xây dựng Hà Nội thành trung tâm điều phối nông sản (nongnghiep.vn)