Category Archives: Tin tức

Tạo liên kết vùng thúc đẩy tiêu thụ nông sản qua thương mại điện tử

Thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 60/QĐ-BCT ngày 18/1/2022 phê duyệt Chương trình hành động của Bộ Công Thương để triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 02/NQ-CP.

Theo đó, ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2022, các đơn vị thuộc Bộ Công Thương đã khẩn trương, tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao đảm bảo chất lượng và tiến độ đã được đề ra.

Bộ Công Thương đã triển khai hàng loạt các Chương trình kết nối thương mại điện tử kết hợp đào tạo, tập huấn thương mại điện tử tại một số tỉnh, thành phố. Đặc biệt đẩy mạnh kết nối theo vùng, thúc đẩy liên kết vùng để tiêu thụ nông sản, thực phẩm, đặc sản địa phương qua phương thức thương mại điện tử.

Thúc đẩy tiêu thụ nông sản qua sàn thương mại điện tử

Với lợi thế của thương mại điện tử giúp vận hành tiêu thụ hàng hoá khắp các tỉnh, thành phố thông qua hệ thống chuyển phát thương mại điện tử, các sản phẩm nông sản, đặc sản địa phương đã được đẩy mạnh tiêu thụ ở nhiều tỉnh, thành phố.

Các chương trình kết nối thương mại điện tử nổi bật như: Hội nghị kết nối thương mại điện tử tại Hưng Yên, Bắc Giang, Hải Dương, Hội nghị thương mại điện tử OCOP tại Quảng Ninh, Hà Tĩnh; Hội nghị kết nối cung cầu và thương mại điện tử tại Thái Bình, Hội nghị kết nối thương mại điện tử và định hướng tiêu dùng tại Cần Thơ và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long… đã hỗ trợ hàng nghìn lượt doanh nghiệp tiếp cận phương thức phân phối hàng hoá trên thương mại điện tử.

Các mặt hàng nông sản tiêu biểu như vải thiều, nhãn lồng, bưởi, na, dừa, bo… cùng các mặt hàng thực phẩm đặc sản như nước mắm, Mật ong, Cà phê… được đẩy mạnh tiêu thụ trên các sàn giao dịch thương mại điện tử.

Bộ cũng phối hợp với các sàn giao dịch thương mại điện tử xây dựng chuyên trang tiêu thụ nông sản, thực phẩm như Sendo Farm, Tiki Ngon… thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm nông sản thực phẩm địa phương hiện đang triển khai tích cực. Có thể nói phương thức phân phối và mua sắm, tiêu thụ nông sản thực phẩm qua thương mại điện tử từng bước trở thành thói quen người tiêu dùng, từ đó hỗ trợ việc tiêu thụ nông sản, đặc sản địa phương qua thương mại điện tử.

Trong năm 2022, Bộ cũng tiếp tục triển khai các chương trình hợp tác về thương mại điện tử xuyên biên giới với các đối tác/Sàn thương mại điện tử quốc tế lớn như Amazon, Alibaba, JD, Sea Group… để thúc đẩy thương mại điện tử xuyên biên giới. Thông qua các chương trình hợp tác này, các sản phẩm đặc sản Việt Nam, do doanh nghiệp sản xuất sẽ có thể xuất khẩu qua thương mại điện tử thông qua các hình thức B2B, B2B2C đến với các thị trường nhiều quốc gia trên thế giới.

Các sản phẩm đẩy mạnh xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới chủ yếu bao gồm nông sản thực phẩm chế biến, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng công nghiệp tiêu dùng… vốn là các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam phù hợp với phương thức phân phối qua thương mại điện tử.

Xây dựng sàn thương mại điện tử hợp nhất 63 tỉnh thành (sanviet.vn), kết nối và tạo nền tảng hỗ trợ cho cả người bán, người mua và các nền tảng số trong việc cung cấp hàng hoá, kết nối dịch vụ, tạo điều kiện phát triển thị trường thương mại điện tử một cách cạnh tranh, minh bạch, từng bước xây dựng Cơ sở dữ liệu bán lẻ trực tuyến tập trung xuyên suốt từ trung ương đến địa phương và giúp người tiêu dùng cuối cùng mua được sản phẩm chất lượng với giá cả hợp lý.
Nguồn: Bộ Công Thương

Thị trường rộng mở cho sản phẩm hữu cơ

Nhu cầu thị trường và cơ hội cho nông sản hữu cơ của Việt Nam hiện nay rất rộng mở. Tuy nhiên, trước hết cần xây dựng được lòng tin với người tiêu dùng.

Tăng trưởng liên tục 2 con số

Theo ông Nguyễn Minh Tiến, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại nông nghiệp (Bộ NN-PTNT), người tiêu dùng toàn cầu đang dần nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của sản phẩm hữu cơ đối với môi trường, sức khỏe con người và tạo ra hệ sinh thái bền vững, nhất là trong bối cảnh hậu Covid-19.

Doanh số bán lẻ sản phẩm hữu cơ (thực phẩm và đồ uống hữu cơ) trên thị trường toàn cầu tăng 15% lên 129 tỷ USD vào năm 2020. Thị trường sản phẩm hữu cơ sản phẩm hữu cơ đã tăng mạnh lên 188 tỷ USD vào năm 2021 và ước đạt 208 tỷ USD năm 2022. Bắc Mỹ và châu Âu chiếm hầu hết doanh số bán hàng, với 90% thị phần. Tuy nhiên, hầu hết tăng trưởng đến từ các khu vực khác, đặc biệt là châu Á. Thị trường sản phẩm hữu cơ đang trở nên quan trọng ở các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan…

-1112-1664357457_1200x0

Để phát triển thị trường cho sản phẩm hữu cơ tại Việt Nam, cần xây dựng được lòng tin đối với người tiêu dùng. Ảnh: Trung Quân.

Một số sản phẩm hữu cơ chính được EU nhập khẩu là rau quả hữu cơ, trong đó trái cây nhiệt đới, các loại hạt và gia vị chiếm tỷ lệ chính. Đặc biệt, những nông sản này đều là những mặt hàng xuất khẩu chính và có lợi thế của Việt Nam.

Ông Tiến thông tin thêm: Thị trường thực phẩm hữu cơ toàn cầu dự kiến sẽ tăng từ 227,19 tỷ USD vào năm 2021 lên 259,06 tỷ USD năm 2022, với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 14%. Thị trường dự kiến sẽ tăng lên 437,36 tỷ USD vào năm 2026 với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 14%.

Tuy nhiên, thị trường sản phẩm hữu cơ toàn cầu dự báo cũng sẽ đối diện với nhiều khó khăn như: Nhu cầu thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật đang phát triển theo cấp số nhân, bắt nguồn từ các yếu tố tương tự như thực phẩm hữu cơ, tức là mối quan tâm về sức khỏe, môi trường và đạo đức. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu về thực phẩm hữu cơ có nguồn gốc động vật.

Nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm hữu cơ đang tăng mạnh và vượt quá nguồn cung. Việc thiếu hụt nguồn cung sẽ dẫn đến tình trạng khan hiếm và giá thành tăng cao, cũng có thể dẫn đến các vụ gian lận, các loại thực phẩm thông thường sẽ được dán nhãn giả hữu cơ.

Trên cơ sở đó, theo ông Tiến, để phát triển thị trường sản phẩm hữu cơ tại Việt Nam, cần xây dựng được lòng tin đối với người tiêu dùng, đây là quá trình cần tới sự nỗ lực từ các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp sản xuất, hệ thống phân phối… Bên cạnh đó, các sản phẩm hữu cơ cần đa dạng chủng loại, mẫu mã để người tiêu dùng có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng.

Các doanh nghiệp cũng cần nắm bắt được các xu thế tiêu dùng nói chung và xu thế tiêu dùng sản phẩm hữu cơ nói riêng như: Sự chuyển dịch sang mua sắm tại nhà; gia tăng số lượng các tiêu chuẩn bền vững; quy trình ghi nhãn mác sản phẩm về kiểm dịch động thực vật hướng tới mục tiêu bảo vệ sức khỏe công đồng…

Thị trường Úc đầy tiềm năng

TS Nguyễn Văn Kiền, Giảng viên chính (danh dự) của Đại học Quốc gia Úc, đồng thời là Giám đốc Công ty TNHH Mekong Organics thông tin: Doanh số bán lẻ thực phẩm hữu cơ tại Úc đã tăng lên hơn 2,5 tỷ USD. Thị trường về hữu cơ của Úc tăng trên 5% mỗi năm và đặc biệt có những năm tăng trên 10%. Tuy nhiên, nguồn cung sản phẩm hữu cơ vào nước này đang khá khiêm tốn.

images2374658_t32__h4_

Theo TS Nguyễn Văn Kiền, sản phẩm hữu cơ có nguồn gốc từ Việt Nam đang dần thâm nhập vào thị trường Úc. Ảnh: TQ.

Về cơ hội cho nông sản hữu cơ chế biến vào thị trường Úc, theo TS Kiền, gạo là mặt hàng có cơ hội tốt nhất nhờ nhu cầu gạo hữu cơ vượt xa nguồn cung. Các sản phẩm trái cây, rau quả chế biến hưởng lợi thế do quy định dễ dàng hơn, trong khi các mặt hàng như hạt điều, macca vào thị trường này cần được xử lý cacbon dioxide. Hai mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam gồm cà phê và hồ tiêu tại thị trường này sẽ gặp nhiều khó khăn do thừa nguồn cung. Các mặt hàng cá, tôm, thảo mộc và gia vị khô như húng quế, quế… sẽ có triển vọng phát triển tốt tại thị trường này.

TS Nguyễn Văn Kiền cho biết thêm: Thông qua mạng lưới đào tạo do Công ty TNHH Mekong Organics tổ chức trong khuôn khổ dự án “Thúc đẩy chứng nhận và thương mại nông sản phẩm hữu cơ Úc – Việt”, cho thấy khá nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thực hiện chứng nhận hữu cơ theo các tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu sang các thị trường khó tính.

Ngoài ra, có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhóm nông dân cũng đang trong quá trình chuyển đổi hoặc tìm hiểu hướng đến chứng nhận các tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế.

Hiện tại, qua quan sát tại các kênh siêu thị, nhà hàng, cửa hàng bán buôn cho thấy, sản phẩm hữu cơ có nguồn gốc từ Việt Nam đang dần thâm nhập vào thị trường Úc. Đó là những tín hiệu tốt để tiếp tục giới thiệu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đến người tiêu dùng Úc trong thời gian tới.

Nguồn:nongsanviet.nongnghiep.vn

Việt Nam chuyển sang kinh tế nông nghiệp là ‘đúng trọng tâm, đúng tư duy’

Đại diện ngành nông nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam khẳng định việc chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp là đúng trọng tâm và đúng tư duy.

Nhân dịp năm mới 2023, ông Ralph Bean, Tham tán Nông nghiệp Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam có buổi trả lời phỏng vấn Báo Nông nghiệp Việt Nam về những thay đổi của ngành trong thời gian vừa qua cũng như khả năng mở rộng hợp tác, trao đổi thương mại nông nghiệp giữa 2 nước trong thời gian tới.

Chia sẻ về việc chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, tân Tham tán Nông nghiệp của Đại sứ quán Hoa Kỳ nhận định: “Tôi gọi việc này là chuyên nghiệp hóa nông nghiệp. Chính phủ Việt Nam tư duy theo cách này và hướng đến mục tiêu này là một tín hiệu rất tốt. Các bạn đã xác định đúng trọng tâm và tư duy đúng về điều đó”.

Chuyên nghiệp hóa nông nghiệp

Như ông đã biết, hiện nay Việt Nam đang thay đổi tư duy, từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Ông có thể chia sẻ ý kiến của mình về vấn đề này?

Tôi nghĩ rằng đây là sự chuyển đổi mà hầu hết quốc gia trải qua. Đây là một quá trình trong đó những người xuất thân từ nông nghiệp, từng tiếp thu các phương pháp làm nông từ gia đình, cha mẹ và những người xung quanh, được đào tạo thêm, ứng dụng nhiều kỹ thuật và thiết bị tiên tiến, để chuyển đổi sang làm nông chuyên nghiệp.

Đây không đơn thuần là ứng dụng công nghệ, mà một phần quan trọng là biết đến những cách làm khác, trong đó có việc quản lý nông trang như quản lý một doanh nghiệp. Vì vậy tôi gọi việc này là chuyên nghiệp hóa nông nghiệp.

Đây là quá trình chuyển đổi mà bất kỳ quốc gia nào cũng trải qua nếu thực sự muốn hiện đại hóa nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu an ninh lương thực của mình. Vì vậy, theo tôi, việc Chính phủ Việt Nam tư duy theo cách này và hướng đến mục tiêu này là một tín hiệu rất tốt và Việt Nam xác định đúng trọng tâm và tư duy đúng về điều đó.

Thay vì nghĩ đơn giản là bạn sinh ra ở nông thôn thì bạn làm nghề nông, ở đây chúng ta hướng đến làm nông như một ngành nghề chuyên nghiệp, qua đó giúp phát triển chuỗi cung ứng, nâng cao sản lượng, giảm thiệt hại, tổn thất và thất thoát sản phẩm.

Nền nông nghiệp Việt Nam có thể đa dạng hóa và cung cấp nhiều loại sản phẩm hơn cho người tiêu dùng Việt Nam cũng như giải phóng các nguồn lực về đất đai và và lao động nhằm giúp nền kinh tế tăng cường phát triển các ngành dịch vụ và chế tạo. Đây chính là một phần của quá trình Việt Nam chuyển đổi để trở thành một nền kinh tế phát triển hàng đầu.

Vâng, bên cạnh câu chuyện sản xuất, Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực thực hiện các cam kết của mình về phát triển xanh và bền vững. Theo ông, Việt Nam và Hoa Kỳ có thể hợp tác như thế nào trong vấn đề này?

Trước hết, tôi muốn bày tỏ sự trân trọng đối với Chính phủ Việt Nam vì những cam kết mà Việt Nam đã đưa ra. Đặc biệt, Bộ NN-PTNT rất quyết tâm thực hiện các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp và thích ứng với những thay đổi do biến đổi khí hậu. Tôi rất trân trọng tư duy nhìn xa trông rộng và sự cam kết của phía Việt Nam.

Sự hợp tác mà bạn nói tới đã và đang diễn ra. Hiện nay, chúng tôi có dự án hợp tác với Việt Nam nhằm xây dựng phần mềm giúp nông dân Việt Nam điều chỉnh khẩu phần ăn cho động vật, trước hết là với bò sữa để giảm lượng phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi.

Lô bưởi 40 tấn chính thức xuất sang Hoa Kỳ
Ngày 28/11/2022, Bộ NN-PTNT phối hợp với UBND tỉnh Bến Tre tổ chức buổi “Lễ công bố xuất khẩu lô bưởi đầu tiên của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ”. Ảnh: Minh Đãm.

Chúng tôi đang cân nhắc mở rộng chương trình với một số loại gia súc khác và tăng cường tính thực tiễn để có thể áp dụng rộng rãi và đưa cách làm này trở thành một công cụ hữu ích cho ngành chăn nuôi Việt Nam nhằm giảm phát thải khí nhà kính.

Chúng tôi đang hợp tác với Chính phủ Việt Nam về công nghệ sinh học – đây là một công cụ mạnh mẽ để có được những giống cây trồng giúp giảm phát thải khí nhà kính và có thể thích ứng với biến đổi khí hậu.

Một trong những chương trình của chúng tôi đã tài trợ cho một nghiên cứu viên Việt Nam sang Hoa Kỳ nghiên cứu việc áp dụng chỉnh sửa gen để tạo ra giống đậu tương chịu hạn.

Chúng tôi cũng hỗ trợ Việt Nam tham gia vào một số hoạt động trao đổi liên quan đến công nghệ sinh học. Chỉnh sửa gen là một công cụ vô cùng mạnh mẽ mà tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ thấy rất hữu ích trong tương lai.

Ngoài ra, cùng với các đơn vị khác trong Đại sứ quán Hoa Kỳ, chúng tôi đã thành lập Nhóm công tác về Biến đổi khí hậu cùng với Bộ NN-PTNT. Chúng tôi thực sự trân trọng sự tham gia tích cực và đầy quyết tâm của Bộ NN-PTNT và chúng tôi rất kỳ vọng vào tương lai của Nhóm công tác này.

Mối quan hệ rất bền vững

Xin được chuyển sang vấn đề song phương, những năm gần đây, Hoa Kỳ trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng nông sản của Việt Nam. Tuy nhiên, chủng loại hoàng hóa được phía Hoa Kỳ chấp thuận vẫn còn hạn chế. Ông nghĩ gì về triển vọng mở rộng thêm danh mục hàng hóa của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ?

Như bạn đã nói, Hoa Kỳ trở thành thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng nông sản của Việt Nam và Việt Nam hiện là thị trường lớn thứ 8 trong số các thị trường nhập khẩu hàng nông sản của Hoa Kỳ.

Tôi nghĩ đây là một mối quan hệ rất bền vững. Việc xem xét mở cửa thị trường đối với rau quả tươi tuân thủ quy trình dựa trên cơ sở khoa học và theo luật định. Hiện nay, mỗi bên xem xét lần lượt từng sản phẩm.

Đến nay, Hoa Kỳ đã mở cửa thị trường cho 7 loại trái cây tươi của Việt Nam, trong đó có trái bưởi được cấp phép cách đây ít tuần. Hiện nay, Việt Nam đã mở cửa thị trường cho 6 loại trái cây tươi của Hoa Kỳ, đó là táo, lê, nho, việt quất, cam, anh đào. Việt Nam đang xem xét mở cửa thị trường cho quả bưởi chùm của Hoa Kỳ.

Giờ đây khi chúng tôi đã cấp phép cho trái bưởi của Việt Nam, chúng tôi sẽ tiếp tục xem xét sản phẩm tiếp theo, việc lựa chọn sản phẩm nào tiếp theo là theo thứ tự ưu tiên của Chính phủ Việt Nam đưa ra.

Chúng tôi cũng muốn quá trình đó diễn ra nhanh hơn, song đây là một quy trình khoa học mà theo đó hai phía phải trao đổi nhiều lần để đảm bảo tránh rủi ro sâu bệnh trước khi đưa sản phẩm ra thị trường.

Quá trình này cũng tương tự quá trình Hoa Kỳ đề nghị tiếp cận thị trường Việt Nam, phụ thuộc vào các cơ quan hữu quan.

DSQ My-3

Phóng viên Báo Nông nghiệp Việt Nam (phải) phỏng vấn ông Ralph Bean về hợp tác song phương Việt Nam – Hoa Kỳ trong lĩnh vực nông nghiệp. Ảnh: Phạm Huy.

Bên cạnh vấn đề thương mại, ông có thể chia sẻ ý kiến của mình về hợp tác đào tạo và đầu tư giữa hai nước?

Hiện nay, chúng tôi có hai chương trình là Cochran và Borlaug. Như tôi đã trao đổi ở trên, một trong những nhà nghiên cứu nhận học bổng chương trình Cochran đã sang Hoa Kỳ để tìm hiểu về chỉnh sửa gien ở đậu tương.

Chúng tôi đang có học bổng về giới hạn tối đa dư lượng hóa chất trong thực phẩm. Chúng tôi hy vọng mở rộng chương trình và chúng tôi cũng đang cân nhắc những chương trình khác.

Chúng tôi đã lựa chọn Việt Nam là một trong bốn quốc gia tham gia chương trình Global Fertilizer Challenge (Thách thức Phân Bón Toàn cầu). Chương trình này hỗ trợ cải thiện việc sử dụng phân bón của Việt Nam, qua đó giúp giảm chi phí cho người nông dân vì họ không sử dụng nhiều phân bón như trước, giúp họ xác định chính xác số lần sử dụng và cách sử dụng, và giảm lượng phân bón thừa ngấm vào nguồn nước. Như vậy sẽ tiết kiệm chi phí và cải thiện môi trường.

Về đầu tư, với Hoa Kỳ, đầu tư thường do các doanh nghiệp thực hiện. Văn phòng tôi – Văn phòng Đại diện Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam – sẵn sàng giới thiệu các công ty của Hoa Kỳ cho Việt Nam, giới thiệu cho họ về các điều kiện và cơ hội tại Việt Nam nhưng quyết định có đầu tư vào Việt Nam hay không vẫn là ở họ.

DSQ My-6

Tân Tham tán Nông nghiệp Ralph Bean kỳ vọng về việc xây dựng được chuỗi cung ứng lạnh trong nhiệm kỳ của mình tại Việt Nam. Ảnh: Tùng Đinh.

Theo ông hai bên cần làm gì để thúc đẩy hơn nữa thương mại nông sản song phương?

Theo tôi, thương mại nông nghiệp giữa hai nước đang phát triển rất tốt. Việt Nam là thị trường nhập khẩu nông sản lớn thứ 8 của chúng tôi và tôi nghĩ càng nhiều công ty đến Việt Nam kinh doanh thì họ sẽ thấy càng nhiều cơ hội.

Từ góc độ một doanh nghiệp, mối lo ngại chính là rủi ro, và kiến thức về thị trường sẽ giúp giảm bớt rủi ro. Tôi nghĩ rằng tiếp tục thúc đẩy thương mại, tiếp tục hợp tác sẽ giúp thúc đẩy đầu tư.

Tại Văn phòng Đại diện Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam, chúng tôi kết nối các công ty của Hoa Kỳ với thị trường Việt Nam, giúp họ hiểu và thêm tự tin vào thị trường. Tôi nghĩ tiềm năng ở đây vô cùng lớn và tương tự, tiềm năng của thị trường Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp Việt Nam cũng rất lớn.

Câu hỏi cuối dành cho ông, là tân Tham tán Nông nghiệp của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông có đặt ra mục tiêu cụ thể nào cho nhiệm kỳ của mình tại Việt Nam không?

Người tiền nhiệm của tôi – ông Robert Hanson – đã rất xuất sắc. Điều này khó cho tôi bởi ai cũng luôn muốn cố gắng đạt được kết quả tốt hơn người đi trước.

Ông ấy đã xây dựng những chương trình tuyệt vời và đó chính là những gì tôi sẽ làm nếu ở vị trí của ông ấy.

Tôi cũng có một số dự án tâm đắc mà tôi hy vọng có thể thực hiện, tôi nghĩ những dự án này có nhiều tiềm năng ở Việt Nam, đặc biệt là về chuỗi cung ứng, trong đó có chuỗi cung ứng lạnh.

Tôi nghĩ phân phối trong chuỗi cung ứng lạnh và phân phối nói chung là lĩnh vực mà chúng tôi có thể hợp tác tốt với Việt Nam và điều này sẽ giúp ích cho nông dân Việt Nam.

Khi đã có chuỗi kho lạnh tốt thì rau củ quả, đặc biệt là các sản phẩm thịt cá sẽ giữ được chất lượng tốt hơn nhiều. Sản phẩm chất lượng tốt ra thị trường sẽ được bán được với giá tốt hơn, giảm hư hỏng, thất thoát lãng phí.

Đây cũng là một phần trong các vấn đề về biến đổi khí hậu vì khi bạn thích ứng với biến đổi khí hậu, bạn cần tận dụng tối đa các sản phẩm mà bạn đang sản xuất.

Các nhà xuất khẩu của chúng tôi rất quan ngại về việc duy trì chất lượng sản phẩm của họ khi sản phẩm được đưa ra thị trường. Người dân cũng như các nhà sản xuất thịt và gia cầm Hoa Kỳ lo ngại về việc sức khỏe người tiêu dùng bị ảnh hưởng khi sản phẩm của họ không được xử lý tốt ở khâu nào đó khi đưa ra thị trường.

Bởi vậy, việc xây dựng một chuỗi cung ứng lạnh tốt chắc chắn sẽ đảm bảo được những tiêu chuẩn đó. Đây là khâu mà văn phòng chúng tôi làm rất tốt và sẽ mang lại lợi ích cho mọi người.

Xin cảm ơn ông!

Nguồn: nongnghiep.vn

Chuyên gia Ngân hàng Thế giới nêu 3 khía cạnh cần tập trung của nông nghiệp Việt Nam

Xanh hóa sản xuất và xuất khẩu nông sản là xu hướng toàn cầu

Thưa ông, năm 2022 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 với mục tiêu hướng đến nền nông nghiệp xanh, sinh thái, bền vững, ông đánh giá thế nào về sự thay đổi tư duy của nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua?

Trong nhiều thập kỷ, Việt Nam đã theo đuổi mô hình sản xuất nông nghiệp tập trung vào sản lượng. Hạn chế của mô hình này là quá tập trung vào tăng sản lượng mà không quan tâm đúng mức đến thu nhập của người nông dân cũng như các chi phí môi trường khác. Điều này dẫn đến tình trạng mặc dù sản xuất nông nghiệp và doanh thu xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam không ngừng tăng trưởng, song, thu nhập của người nông dân vẫn giảm đi theo thời gian.

Việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng kinh tế nông nghiệp sẽ giúp đảo ngược xu hướng này. Thông qua cách tiếp cận “tăng giá trị, giảm đầu vào”, mô hình kinh tế nông nghiệp sẽ góp phần cải thiện thu nhập của nông dân cũng như khôi phục hệ sinh thái và môi trường nông thôn.

Chúng tôi hoan nghênh sự thay đổi tư duy chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp vì hai lý do. Thứ nhất, cách tiếp cận này hướng tới sự bền vững về môi trường, ưu tiên chất lượng hơn là số lượng. Thứ hai, chiến lược đã đặt con người mà cụ thể ở đây là người nông dân làm trọng tâm, đây cũng điểm phù hợp với xu hướng chung trên thế giới.

Chúng tôi nhận thấy các chiến lược gần đây của Chính phủ Việt Nam, điển hình là Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Quy hoạch tổng thể vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã nắm bắt chính xác các khía cạnh chính của mô hình phát triển kinh tế nông nghiệp như sản xuất, thu nhập, xuất khẩu, việc làm, môi trường và tiêu chí nông thôn mới.

Tương ứng với sự thay đổi tư duy này, Ngân hàng Thế giới cũng đã điều chỉnh trọng tâm các chương trình hợp tác với Chính phủ Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp hướng tới tăng cường khả năng chống chịu với khí hậu, đa dạng hóa sinh kế và phát triển nông nghiệp carbon thấp.

wb3

Ngài Ahmed Eiweida, Trưởng ban phát triển bền vững Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam trao đổi với PV NNVN. Ảnh: Tùng Đinh.

Thưa ông, xuất khẩu nông sản Việt Nam tiếp tục thiết lập kỷ lục mới, đạt 54 tỷ USD trong năm 2022, theo ông, Việt Nam cần làm gì để việc sản xuất cũng như xuất khẩu bền vững, đáp ứng được sự thay đổi ngày càng khắt khe của thị trường thế giới?

Chúng tôi rất ấn tượng với kết quả xuất khẩu nông sản của Việt Nam, qua đây cũng thể hiện rõ thế mạnh và lợi thế so sánh của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Chúng tôi cho rằng, để giữ vững cũng như tăng cường khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế, Việt Nam cần đẩy mạnh chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp xanh và carbon thấp. Xanh hóa sản xuất và xuất khẩu nông sản là xu hướng toàn cầu, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với các sản phẩm xanh và hàm lượng carbon thấp, đặc biệt là tại các thị trường châu Âu.

Một khảo sát cho thấy, 85% các nhà bán lẻ tại thị trường EU cho biết doanh số bán các sản phẩm nông nghiệp sản xuất theo phương thức bền vững đã tăng trong 5 năm qua và 92% trong số họ tin rằng mức tăng sẽ còn lớn hơn trong 5 năm tới. Ví dụ gần đây nhất là vào đầu tháng 12 năm 2022 Liên minh Châu Âu đã đạt thỏa thuận cấm nhập nhập khẩu các sản phẩm bao gồm cà phê, ca cao và đậu nành trong trường hợp chúng được coi là góp phần thúc đẩy nạn phá rừng.

Để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp xanh và bền vững hơn, thứ nhất chính phủ cần tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia nhiều hơn vào hỗ trợ tăng trưởng nông nghiệp, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ môi trường . Thứ hai, cần áp dụng rộng rãi những thực hành nông nghiệp thông minh với khí hậu. Cuối cùng, cần đẩy mạnh chuyển đổi số và áp dụng những công nghệ mới trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Thưa ông, Chính phủ Việt Nam đã cam kết với thế giới tại Hội nghị COP26 rằng sẽ giảm mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, ông đánh giá như thế nào về mục tiêu phát triển kinh tế xanh của chúng tôi và Ngân hàng Thế giới sẽ đồng hành như thế nào để hiện thực hóa mục tiêu đó?

Đối với ngành nông nghiệp, báo cáo NDC 2022 đặt mục tiêu giảm 12,4 triệu tấn CO2 tương đương trong kịch bản phát triển thông thường (mức đóng góp vô điều kiện) và 50,9 triệu tấn với sự hỗ trợ quốc tế (mức đóng góp có điều kiện).

Trong khi đó, các mục tiêu này trong báo cáo NDC 2022 chỉ là 6,8 triệu tấn và 32,9 triệu tấn. Để đạt được mục tiêu mới, ngành nông nghiệp sẽ cần huy động một nguồn tài chính khoảng 2,1 tỷ USD với mức đóng góp vô điều kiện và 16,1 tỷ USD mức đóng góp có điều kiện.

Như chúng ta đã biết, canh tác lúa là hoạt động phát thải khí nhà kính lớn nhất trong ngành nông nghiệp Việt Nam, mỗi năm phát thải khoảng 49,6 triệu tấn CO2 tương đương. Chính vì vậy Việt Nam đang chuyển đổi sang hình thức sản xuất lúa gạo carbon thấp có nhiều tiềm năng giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khí mê-tan.

Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững Việt Nam (VnSAT) do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ đã chứng minh rằng việc áp dụng công nghệ cải tiến trong canh tác lúa không chỉ giúp tăng năng suất và lợi nhuận ròng cho nông dân mà còn giảm đáng kể lượng phát thải khí nhà kính.

Khi dự án VnSAT kết thúc vào tháng 6 năm 2022, chúng tôi tổng kết đã góp phần giảm khoảng 1,5 triệu tấn CO2 tương đương hàng năm. Đây là mô hình hoàn toàn có thể được nhân rộng nếu có sự hỗ trợ của Chính phủ thông qua những đầu tư vào cơ sở hạ tầng và chương trình khuyến nông quy mô lớn.

Chúng tôi ước tính rằng nếu các vùng lúa trọng điểm còn lại ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng áp dụng hình thức canh tác này, có thể giúp giảm hơn 10 triệu tấn CO2 tương đương hàng năm.

Hiện nay, Ngân hàng Thế giới cũng đang nghiên cứu các phương thức huy động từ các quỹ tài chính carbon để chi trả tín chỉ carbon cho các hợp tác xã sản xuất lúa giảm phát thải trong khuôn khổ dự án VnSAT đồng thời hỗ trợ cho đề án sản xuất bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Ngân hàng Thế giới cũng đang phối hợp với Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO) và Viện nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI) để hỗ trợ Bộ NN-PTNT xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo và Thẩm định (MRV) chuẩn hóa cho ngành lúa gạo.

Chúng tôi hy vọng rằng việc huy động thêm nguồn lực  từ quỹ tài chính carbon để hỗ trợ việc áp dụng các phương pháp canh tác lúa tiên tiến sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển đổi tiểu ngành lúa gạo sang hướng xanh hơn, bền vững hơn.

WB-3

Ngài Ahmed Eiweida, Trưởng ban phát triển bền vững Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. Ảnh: Tùng Đinh.

Tiến bộ to lớn về cải cách chính sách nông nghiệp

Gắn bó với nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam, ông nhìn nhận thế nào về chính sách, chiến lược đầu tư phát triển “tam nông” của chúng tôi hiện nay?

Việt Nam đã đạt được những tiến bộ to lớn về cải cách chính sách nông nghiệp cũng như xây dựng và thực hiện các chiến lược liên quan.

Tôi cho rằng chiến lược quan trọng nhất hiện nay chính là Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững của Bộ NN-PTNT giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bởi vì chiến lược đã đánh đấu những thay đổi mạnh mẽ trong cách tiếp cận phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Chiến lược này thể hiện rõ sự thay đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ ưu tiên lượng sang chất, từ các sản xuất ít quan tâm đến môi trường đến các thực hành bền vững.

Đồng thời, chiến lược này cũng đã đánh giá đúng tầm quan trọng của việc ứng phó với biến đổi khí hậu, bên cạnh các nỗ lực về giảm thiểu rủi ro thiên tai. Chiến lược này cũng rất phù hợp với Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 cũng như các cam kết của Việt Nam tại COP26 và COP27.

Nhiệm vụ quan trọng bây giờ là đưa những chiến lược này vào thực tiễn cuộc sống. Điều này đòi hỏi phải chuẩn bị các kế hoạch hành động, kế hoạch vốn đầu tư công ưu tiên và tận dụng nguồn tài chính từ các quỹ khí hậu và tài chính carbon khu vực tư nhân.

wb2

Chiến lược nông nghiệp của Việt Nam đã đánh dấu thay đổi mạnh mẽ. Ảnh: Tùng Đinh.

Theo ông, nền nông nghiệp Việt Nam cần tiếp tục thay đổi như thế nào để đóng góp nhiều hơn nữa vào mục tiêu phát triển chung của đất nước?

Trong tương lai, chúng tôi cho rằng ngành nông nghiệp nên tập trung vào những khía cạnh quan trọng sau:

Thứ nhất là thực hiện các chính sách khuyến khích để tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi sang nền nông nghiệp xanh và carbon thấp, bao gồm xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích, thiết kế các chính sách hỗ trợ để thúc đẩy đa dạng hóa sinh kế; nâng cao các tiêu chuẩn môi trường và tăng cường hiệu quả thực thi; cho phép chuyển đổi linh hoạt hơn các loại đất trồng lúa; và tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới, khuyến nông, hiểu biết về tài chính và kết nối nông thôn.

Thứ hai là tăng cường thể chế theo hướng giảm sự chỉ đạo, can thiệp trực tiếp từ Chính phủ và tăng vai trò kiến tạo; tăng cường năng lực của Bộ NN-PTNT và Sở NN-PTNT trong việc thúc đẩy quan hệ đối tác công tư, giám sát tác động môi trường của các chính sách và đầu tư, và thiết lập hệ thống tiếp cận tài chính carbon; phát huy vai trò chủ thể của người nông dân.

Thứ ba, tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân như thúc đẩy các liên minh sản xuất theo chiều ngang và chiều dọc giữa các hợp tác xã, hiệp hội nông dân và người tiêu dùng, đồng thời tận dụng các công nghệ và nền tảng kỹ thuật số.

Nguồn: nongnghiep.vn

Tăng cường công tác tuyên truyền về kinh tế tập thể, hợp tác xã

Chiều 29.12, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam ký kết Chương trình phối hợp tuyên truyền giai đoạn 2023 – 2025.
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam ký kết Chương trình phối hợp tuyên truyền giai đoạn 2023 – 2025.

Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam ký kết Chương trình phối hợp tuyên truyền giai đoạn 2023 – 2025.

Đây là hoạt động trong khuôn khổ Chương trình Hội nghị Ban chấp hành lần thứ 6, Khóa VI Liên minh Hợp tác xã (HTX) Việt Nam, nhằm tăng cường công tác tuyên truyền về kinh tế tập thể, HTX.

Theo đó, trong giai đoạn 2023 – 2025, hai bên sẽ cùng nhau phối hợp nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế tập thể, HTX. Trong đó, tập trung tuyên truyền Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16.6.2022 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới; Quyết định số 340/QĐ-TTg ngày 12.3.2021 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 – 2030; Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 13.02.2021 phê duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 – 2025…

Bên cạnh đó, đấu tranh, phản bác thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, kích động về kinh tế tập thể, HTX; tuyên truyềnvị trí, vai trò nòng cốt của hệ thống Liên minh Hợp tác xã Việt Nam trong thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, HTX, Nghị quyết Đại hội VI Liên minh HTX Việt Nam nhiệm kỳ 2020 – 2025…

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo phát biểu tại Lễ ký kết

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo phát biểu tại Lễ ký kết

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Nguyễn Ngọc Bảo nêu rõ, công tác tuyên truyền trên hệ thống báo chí với lĩnh vực kinh tế tập thể, HTX có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn mới.

Hiện, số lượng HTX, Liên hiệp HTX, tổ hợp tác thành lập mới và hộ cá thể, cá nhân tham gia thành viên tăng ở tất cả các tỉnh, thành phố. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các loại hình HTX, Liên hiệp HTX trên địa bàn cả nước phục hồi dần vào cuối quý II, phát triển ổn định trong quý III và IV.2022.

“Hầu hết hoạt động ổn định trở lại, phát triển và có doanh thu, lợi nhuận khá cho thấy mô hình kinh tế tập thể phù hợp với nhu cầu tổ chức sản xuất của người dân, phục vụ sản xuất kinh doanh bền vững và thực hiện hiệu quả chương trình hành động phục hồi kinh tế”, ông Nguyễn Ngọc Bảo thông tin.

Nguồn: vca.org.vn

Nâng chất dịch vụ logistics cho doanh nghiệp FDI tại miền Trung

(ĐTTCO)- Với lợi thế về vị trí địa lý nằm ngay trên những trục giao thông quan trọng của đất nước, có nhiều cảng biển lớn, cùng với nguồn lao động dồi dào, những năm gần đây, miền Trung thu hút đông đảo doanh nghiệp FDI đến đầu tư. Sự gia tăng đầu tư kéo theo nhu cầu lớn về xuất nhập khẩu hàng hóa đã đặt ra cho các doanh nghiệp logistics yêu cầu cấp thiết về mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng chuỗi dịch vụ để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Xu hướng mới, cơ hội mới

Hiện nay, xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển đang diễn ra mạnh mẽ. Trong đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia tiêu biểu để xây dựng chuỗi cung ứng thay thế.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 11 tháng năm 2022, đã có 1.810 dự án của 107 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào nước ta với tổng vốn đạt hơn 25,1 tỷ USD, góp phần hình thành các vùng sản xuất lớn, gia tăng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa.

Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, khu vực doanh nghiệp FDI chiếm gần 70% tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước. Điều này cho thấy nhu cầu logistics của các công ty FDI là rất lớn, mở ra cơ hội để các doanh nghiệp logistics phát triển chuỗi dịch vụ, thu hút nguồn “chân hàng”, thúc đẩy giao thương trong nước và quốc tế.

Nằm ngay trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, cảng Chu Lai cũng ghi nhận những tác động tích cực từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng. Thời gian gần đây, lượng hàng hóa của các doanh nghiệp FDI tại Quảng Nam và các tỉnh lân cận xuất nhập khẩu qua cảng ngày càng tăng.

Hiện nay, cảng Chu Lai đang phục vụ xuất khẩu hàng hóa cho nhiều doanh nghiệp FDI thuộc các khu công nghiệp Tam Thăng, Bắc Chu Lai, Dung Quất, VSIP như: Happy Furniture, Xindadong Textile, Millennium, Shengyang Textile, Shin Chang Vina, Hyosung, DH Textile… với các mặt hàng chủ yếu là linh kiện điện tử, thiết bị y tế, hàng may mặc, nội thất, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, thực phẩm, hóa chất…

Nâng chất dịch vụ logistics cho doanh nghiệp FDI tại miền Trung ảnh 1

Cảng Chu Lai cung cấp các dịch vụ nâng hạ, kiểm đếm, xếp dỡ hàng hóa… phục vụ doanh nghiệp FDI.

Ông Deokyun Han – Giám đốc Công ty DH Textile (KCN Tam Thăng – Quảng Nam) – một trong những đối tác của cảng cho biết: “Nhu cầu xuất khẩu hàng dệt may số lượng lớn sang các nước trên thế giới và nhập các nguyên liệu phục vụ sản xuất của chúng tôi đang ngày càng gia tăng. Sử dụng dịch vụ logistics trọn gói tại cảng Chu Lai giúp chúng tôi tiết kiệm được thời gian và tối ưu chi phí. Cảng có các chính sách hỗ trợ phù hợp, luôn cung ứng lượng container rỗng kịp thời, thủ tục hải quan nhanh chóng, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp”.

Trong bối cảnh lạm phát gia tăng, thay vì xây dựng nhà xưởng để lưu trữ hàng hóa thì việc thuê nhà xưởng, nhà kho sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí đầu tư. Thời gian qua, đã có nhiều khách hàng ký kết hợp tác với cảng Chu Lai để thuê kho, bãi. Cảng đã đầu tư mở rộng hệ thống kho bãi với tổng diện tích 224.000 m2, theo tiêu chuẩn quốc tế với các phân khu chuyên biệt (kho ngoại quan, kho hàng, kho lạnh, bãi container), đáp ứng nhu cầu lưu trữ hàng hóa với số lượng lớn và đa dạng chủng loại của các doanh nghiệp FDI.

Đẩy mạnh đầu tư, thu hút doanh nghiệp FDI

Doanh nghiệp FDI là các doanh nghiệp có phần sở hữu của các công ty đa quốc gia và sự tham gia quản lý trực tiếp của nước ngoài thường có yêu cầu khá cao về chất lượng dịch vụ logistics. Đặc biệt là tiêu chí về chi phí, thời gian cung ứng và số hóa trong quản lý giao nhận, vận chuyển. Để đáp ứng yêu cầu này, cảng Chu Lai đã đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng kho bãi, trang bị phương tiện, thiết bị hiện đại, tiếp tục chuyển đổi số trong hoạt động kinh doanh, tăng cường liên kết với các cảng biển trong khu vực để nâng cao chất lượng chuỗi dịch vụ.

Nhằm đa dạng hóa các tuyến dịch vụ, giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, linh hoạt thời gian xuất nhập khẩu hàng hóa, cảng đã hợp tác với nhiều hãng tàu lớn trên thế giới như: CMA CGM, ZIM, SITC… mở thêm nhiều tuyến hàng hải kết nối trực tiếp từ Chu Lai đến các cảng quốc tế, đặc biệt là khu vực Đông Bắc Á. Bên cạnh đó, cảng đang đẩy mạnh chiến lược “liên vùng” để liên kết với các cảng biển tại Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định… nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh của nhau, nâng cao chất lượng dịch vụ.

Hướng tới phát triển mô hình cảng biển thông minh, cảng Chu Lai tăng cường ứng dụng các phần mềm trong khai thác container, giám sát hành trình phương tiện, khai báo hải quan, các ứng dụng kiểm soát hàng hóa tự động… nhằm tiết kiệm thời gian xếp dỡ, giúp khách hàng thuận tiện theo dõi, quản lý hàng hóa, hoàn tất các thủ tục nhanh chóng, chính xác.

Nâng chất dịch vụ logistics cho doanh nghiệp FDI tại miền Trung ảnh 2
Hệ thống kho bãi tại cảng Chu Lai có diện tích 224.000 m2, được phân chia thành các phân khu chuyên biệt như kho ngoại quan, kho hàng, bãi container.

Ông Phan Văn Kỳ, Giám đốc Công ty Cảng biển quốc tế Chu Lai cho biết: “Trước những biến động của nền kinh tế, chúng tôi luôn luôn hỗ trợ khách hàng và hạn chế tối đa việc điều chỉnh biểu phí, giá nâng hạ, phí lưu kho bãi cũng như giá các dịch vụ khác liên quan đến xuất nhập khẩu nhằm chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp. Đồng thời, cảng phối hợp với cơ quan hải quan đơn giản hóa các thủ tục, đẩy nhanh tốc độ thông quan hàng hóa”.

Hiện nay, cảng Chu Lai đang thực hiện các thủ tục đầu tư dự án bến cảng đón tàu 5 vạn tấn, đồng thời phối hợp với tỉnh Quảng Nam trình đầu tư xây dựng tuyến luồng mới Cửa Lở nhằm hoàn thiện hệ thống hạ tầng cảng biển, hướng tới mục tiêu trở thành cảng container lớn nhất miền Trung, đóng góp phát triển kinh tế – xã hội của khu vực.

Nguồn: saigondautu.com.vn

Xuất khẩu nông sản sang thị trường EU đối diện với thách thức mới

Xu hướng tiêu dùng xanh, sạch của thị trường EU ngày càng gắt gao, xuất khẩu nông sản sang EU đối diện với thách thức mới.

Theo Báo cáo của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy, 10 tháng đầu năm 2022, Việt Nam kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản sang thị trường EU đạt 3,8 tỷ USD, trong khi nhập khẩu 936,3 triệu USD, tăng 17,7% về xuất khẩu và 15,1% về nhập khẩu so với cùng kỳ năm 2021.

Cao su, cà phê, ca cao, gỗ… nếu trồng trên đất phá rừng sau năm 2020 sẽ không được nhập khẩu vào EU theo một thỏa thuận mới đây.
Cao su, cà phê, ca cao, gỗ… nếu trồng trên đất phá rừng sau năm 2020 sẽ không được nhập khẩu vào EU theo một thỏa thuận mới đây.

Tốc độ tăng trưởng của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam xuất khẩu sang EU so với năm 2021 như sau: Cà phê (tăng 42,1%); gạo (tăng 63,9%); gỗ và sản phẩm gỗ (tăng 8,3%); hàng rau quả (tăng 20,2%); hàng thủy sản (tăng 32,9%); hạt điều (giảm 17,3%); hạt tiêu (giảm 0,6%), mây, tre, cói và thảm (giảm 2,3%); và sản phẩm từ cao su (giảm 24,9%); cao su (giảm 33,3%); chè (giảm 38,7%).

Các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTAs) trong đó có Hiệp định EVFTA được thực thi đã tạo đà cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng trưởng cao hơn. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng cơ hội từ việc cắt giảm thuế quan của EU theo EVFTA.

Thực tế, các doanh nghiệp điển hình của khối EU đã hướng tới thị trường Việt Nam nhiều hơn. Tuy nhiên, Việt Nam đối mặt với trở ngại khi phải đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh, sạch của EU ngày càng gắt gao.

Theo Thương vụ Việt Nam tại Bỉ, EU đã đạt được thỏa thuận chính trị về luật chống phá rừng và suy thoái rừng toàn cầu được thúc đẩy bởi sản xuất và tiêu dùng của EU. Thỏa thuận quan trọng này được đưa ra ngay trước khi bắt đầu Hội nghị quan trọng về đa dạng sinh học (COP15) nhằm xác định các mục tiêu bảo vệ thiên nhiên trong nhiều thập kỷ tới.

Theo đó, sau khi được thông qua và áp dụng, luật mới đảm bảo một loạt hàng hóa chính được đưa vào thị trường EU sẽ không góp phần vào nạn phá rừng và suy thoái rừng ở EU và các nơi khác trên thế giới.

Khi các quy định mới có hiệu lực, tất cả các công ty liên quan sẽ phải tiến hành thẩm định nghiêm ngặt nếu họ đặt hàng trên thị trường EU hoặc xuất khẩu từ thị trường này: dầu cọ, gia súc, đậu nành, cà phê, ca cao, gỗ và cao su cũng như các sản phẩm có nguồn gốc (chẳng hạn như thịt bò, đồ nội thất hoặc sô cô la). Những mặt hàng này đã được chọn trên cơ sở đánh giá tác động kỹ lưỡng, xác định chúng là nguyên nhân chính dẫn đến nạn phá rừng do mở rộng nông nghiệp.

Quy định mới đặt ra các quy tắc thẩm định bắt buộc mạnh mẽ đối với các công ty muốn đưa các sản phẩm có liên quan vào thị trường EU hoặc xuất khẩu chúng. Các nhà khai thác và thương nhân sẽ phải chứng minh rằng các sản phẩm đều không liên quan đến phá rừng (được sản xuất trên đất không bị phá rừng sau ngày 31/12/2020) và hợp pháp (tuân thủ tất cả các luật hiện hành có liên quan có hiệu lực tại quốc gia sản xuất).

Các công ty cũng sẽ được yêu cầu thu thập thông tin địa lý chính xác trên đất nông nghiệp nơi các loại hàng hóa mà họ cung cấp đã được trồng, để những hàng hóa này có thể được kiểm tra xem có tuân thủ hay không. Các quốc gia thành viên cần đảm bảo rằng việc không tuân thủ các quy tắc sẽ dẫn đến các hình phạt hiệu quả và có tính răn đe.

Nghị viện và Hội đồng châu Âu sẽ phải chính thức thông qua Quy định mới trước khi quy định này có hiệu lực. Sau khi Quy định có hiệu lực, các nhà khai thác và thương nhân sẽ có 18 tháng để thực hiện các quy tắc mới. Các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ sẽ được hưởng thời gian thích ứng lâu hơn, cũng như các điều khoản cụ thể khác.

Bà Trần Thị Quỳnh Chi, Giám đốc khu vực châu Á – Chương trình cảnh quan bền vững, Tổ chức Sáng kiến thương mại bền vững (IDH) – đây là một quy định khá khó khăn, bởi nếu muốn đạt được yêu cầu này thì chúng ta phải có được một hệ thống xuất xứ nguồn gốc đến từ nông hộ và đến từng vườn cà phê thì mới có thể chứng minh được với thị trường EU đây là sản phẩm không đến từ những vùng trồng phá rừng.

‘Hiện, chúng tôi đang phối hợp rất chặt chẽ với các doanh nghiệp để làm thế nào đưa ra được giải pháp vừa đảm bảo được chi phí không quá cao nhưng vẫn phải chứng minh được sản phẩm đó không được đến từ những vùng trồng phá rừng’ bà Trần Thị Quỳnh Chi chia sẻ.

Ngoài ra, theo bà Trần Thị Quỳnh Chi, tiêu dùng cà phê thế giới đi theo xu hướng ngày càng đòi hỏi sự bền vững cao hơn, trong đó, yêu cầu thu mua bền vững hay/thu mua các sản phẩm có trách nhiệm; đáp ứng yêu cầu giảm phát thải xuống 0 và tiến tới bằng 0. Để vừa giữ được năng suất, vừa đáp ứng yêu cầu này thì đây là bài toán rất khó khăn.

Tại Hội nghị COP26, Việt Nam cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về việc đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Ông Phùng Đức Tiến – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – cho hay, để phát thải ròng bằng 0 thì tất cả các ngành, lĩnh vực đều phải hành động. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã có chương trình hành động trong lúa gạo, trong chăn nuôi, thủy sản, cà phê. Từ kế hoạch này, Bộ sẽ chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ và các địa phương tuân thủ các chương trình hành động. Riêng đối với cà phê, phải đạt được rất nhiều mục tiêu, cả giống, quy trình canh tác, giảm phát thải.

Để các nông sản Việt Nam có thể gia tăng xuất khẩu vào thị trường EU trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần xây dựng thương hiệu riêng cho mình, hạn chế xuất khẩu thô, nâng cao năng lực chế biến.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hợp tác công tư nhằm tận dụng tối đa cơ hội, hóa giải các thách thức và nâng tầm thương hiệu nông sản Việt tại thị trường EU nói riêng và trên thị trường thế giới nói chung. ‘Hợp tác công – tư này cần có sự thay đổi về chất, trong đó, nhấn mạnh vai trò của chính quyền và các tổ chức địa phương là đầu mối để ghép hai mảnh ghép doanh nghiệp và người nông dân lại với nhau’, bà Trần Thị Quỳnh Chi chia sẻ.

Nguồn: congthuong.vn

Hợp tác đưa nông sản Việt lên chợ công nghệ GrabMart

Thông qua hợp tác này, hai bên hướng đến mục tiêu ứng dụng công nghệ trong kết nối tiêu thụ nông sản, thúc đẩy chuyển đổi số cho các hợp tác xã (HTX), hộ sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Quan hệ hợp tác này cũng sẽ khuyến khích các nhà sản xuất nông nghiệp thử nghiệm phát triển kênh bán hàng trên nền tảng trực tuyến GrabMart, tăng cường tiêu thụ sản phẩm nông sản trong dịp Tết Nguyên Đán 2023.

Đại diện Grab Việt Nam và ITPC- VCA ký kết đưa nông sản Việt lên chợ GrabMart – Ảnh: VGP/PT

Ngay sau khi ký kết hợp tác, ITPC-VCA và Grab Việt Nam sẽ tập trung thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, đẩy mạnh công tác truyền thông quảng bá tiêu thụ nông sản trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới đến người dùng tại Hà Nội.

Mâm cỗ truyền thống sẽ được bán trên GrabMart

Cụ thể, cửa hàng trực tuyến của ITPC-VCA trên GrabMart dự kiến sẽ bán các đặc sản vùng miền như bưởi Diễn, cam sành Tiền Giang, măng nứa khô Cao Bằng, miến dong Điện Biên, thịt trâu gác bếp, lợn gác bếp, xoài sấy dẻo Mộc Châu…và các mâm ngũ quả, mâm cỗ truyền thống.

Trong giai đoạn này, người dùng cũng sẽ được ưu đãi giảm 17.000 đồng phí giao hàng khi mua hàng trên GrabMart.

Về dài hạn, ITPC-VCA và Grab Việt Nam sẽ cùng hợp tác triển khai các hoạt động như hỗ trợ các nhà sản xuất nông nghiệp đăng ký tham gia bán hàng, vận hành và tiêu thụ nông sản trên nền tảng Grab: ITPC-VCA sẽ giới thiệu, cập nhật các nhà sản xuất nông nghiệp chất lượng tham gia vào gian hàng trên GrabMart…

Ông Vũ Quang Phong, Tổng Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, cho biết: “Hợp tác lần này với Grab là một trong những hoạt động thể hiện sự cam kết của chúng tôi trong công tác hỗ trợ các HTX nông nghiệp chuyển đổi số và áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, vận hành, hướng tới những kết quả kinh doanh hiệu quả hơn. Việc ký kết hợp tác mở gian hàng trên GrabMart là giải pháp khắc phục các khó khăn thực tiễn của các HTX trong việc chủ động chuyển mình kinh doanh cùng nền tảng số, quản trị hệ thống, nhân sự, giúp các HTX có thêm kênh an toàn, tin cậy và hiệu quả để thúc đẩy doanh số bán hàng, tinh gọn bộ máy.”

Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, Phó Giám đốc điều hành Grab Việt Nam, cho biết: “Hợp tác lần này với ITPC-VCA là nỗ lực tiếp theo của chúng tôi nhằm đưa các sản phẩm nông sản chất lượng đến tay người dùng trên khắp cả nước, từ đó tạo thêm nhiều cơ hội thu nhập cho đối tác tài xế, nhất là trong dịp Tết Nguyên Đán sắp tới. Quan trọng hơn hết, quan hệ hợp tác giữa hai bên còn góp phần mở ra kênh bán hàng mới bền vững, an toàn, hiệu quả cho người nông dân và các HTX nông nghiệp, từ đó đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp theo định hướng của Chính phủ.”

Với mục tiêu hỗ trợ chuyển đổi số và kết nối tiêu thụ trong lĩnh vực nông nghiệp, trong năm 2022, Grab và các đối tác đã triển khai nhiều chương trình đào tạo kỹ năng số và hỗ trợ chuyển đổi số cho hơn 800 HTX nông nghiệp tại một số tỉnh, thành phố.

Nguồn: vca.org.com

Xuất khẩu trái cây khởi sắc, kỳ vọng đạt 4 tỷ USD trong năm 2023

Năm 2022 là năm thắng lợi lớn của xuất khẩu trái cây khi hàng loạt mặt hàng đã mở được các thị trường mới. Dự báo năm 2023, xuất khẩu trái cây sẽ đạt 4 tỷ USD.

Nguồn cung dồi dào

Ông Đặng Phúc Nguyên – Tổng Thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam cho biết, trong năm 2022, hàng loạt sản phẩm trái cây tươi của Việt Nam như, chuối, sầu riêng, chanh dây… đã được xuất khẩu chính ngạch vào thị trường Trung Quốc. Ngoài ra, trái bưởi, chanh của Việt Nam cũng được phép nhập khẩu vào thị trường New Zealand; trái nhãn tươi được phép nhập khẩu vào Nhật Bản…

Số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, tính tới tháng 11 xuất khẩu rau quả đạt hơn 3,1 tỷ USD. Dự báo hết năm 2022, kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 3,4 tỷ USD. Hiện nhiều mặt hàng trái cây tươi là sản phẩm chủ lực xuất khẩu tại các tỉnh phía Nam đang vào vụ thu hoạch chính như, chuối, thanh long, xoài, bưởi, mít… Với việc nhiều thị trường mở cửa cho mặt hàng trái cây tươi Việt Nam, dự đoán trong niên vụ mới, xuất khẩu các mặt hàng trái cây tươi có nhiều khởi sắc.

Theo số liệu từ Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đồng Nai, hiện trên địa bàn tỉnh có 7 loại trái cây đang vào vụ thu hoạch chính gồm, thanh long, cam, quýt, bưởi, mít, chuối và xoài. Dự kiến trong tháng Tết Nguyên đán 2023, tổng sản lượng thu hoạch các loại nông sản này là 42 ngàn tấn, đảm bảo nhu cầu tiêu thụ trong tỉnh, ngoài tỉnh và thị trường xuất khẩu.

Tại Tiền Giang, hiện toàn tỉnh có gần 10.000 hecta cây thanh long thương phẩm, tập trung nhiều ở các huyện Chợ Gạo, Tân Phước, Gò Công Tây… Đầu ra thuận lợi, giá cao nên nhà vườn rất phấn khởi, tích cực chăm sóc vườn cây để cho thu hoạch vào dịp Tết cổ truyền Quý Mão 2023.

Thông tin từ Cục Trồng trọt , Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, thời điểm cuối năm, nhiều loại trái cây bước vào vụ thu hoạch. Chỉ riêng ĐBSCL, tháng 12, tổng sản lượng trái cây thu hoạch lên tới 360,8 nghìn tấn; trong đó thanh long, xoài, chuối, mít, dứa, sầu riêng,… vào vụ thu hoạch rộ. Quý I/2023, sản lượng trái cây của vùng này ước khoảng 1,08 triệu tấn.

Ông Saw Lean Joo, Tổng giám đốc Công ty CP AGRO QL (TP.HCM) cho biết, nhu cầu về sản phẩm trái cây chế biến khá ổn định, riêng các mặt hàng trái cây tươi thường có biến động rất lớn tùy theo thời điểm thị trường. Cụ thể, những tháng cuối năm, nhất là tháng 12 và tháng 1 năm sau, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng trái cây tươi của nhiều nước tăng cao do mùa đông họ không sản xuất được. DN không lo về đầu ra, điều quan trọng là nông dân phải sản xuất đạt chuẩn thị trường xuất khẩu.

Kỳ vọng xuất khẩu 4 tỷ USD

Một số doanh nghiệp xuất khẩu nông sản dự đoán, khởi động vụ xuất khẩu trái cây, nông sản trong niên vụ mới sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn vì chi phí vận chuyển đã giảm hơn một nửa so với hồi đầu năm. Thị trường xuất khẩu cũng dần khởi sắc hơn. Đặc biệt, nhiều thị trường đã mở cửa với sản phẩm trái cây tươi của Việt Nam.

Ông Biện Tấn Tài, Phó Giám đốc Sở Công thương Bình Thuận cho biết, hiện nay, thanh long Bình Thuận chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Ông Tài dự báo tình hình tiêu thụ thanh long từ nay đến cuối năm sẽ khởi sắc. Bởi hiện phía Trung Quốc ngày càng tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản, cũng như giải quyết ùn tắc tại các cửa khẩu biên giới và hợp tác phòng chống dịch, duy trì hoạt động thương mại thông suốt tại các cửa khẩu.

Chính vì vậy, thời gian thông quan hàng hóa xuất khẩu tại các cửa khẩu biên giới được rút ngắn, thông suốt, hàng hóa không bị ùn ứ nhiều tại cửa khẩu. Đặc biệt, nhu cầu tiêu thụ thanh long của người dân dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Quý Mão sẽ tăng cao.

Nhận định về triển vọng thị trường xuất khẩu rau quả thời gian tới, ông Đặng Phúc Nguyên – Tổng Thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam cho rằng, trong những tháng cuối năm, xuất khẩu rau quả của Việt Nam sẽ tiếp tục khởi sắc với kim ngạch bình quân khoảng 250-260 triệu USD/tháng và dự báo năm 2023 sẽ là năm bùng nổ của ngành rau quả.

Cũng theo ông Nguyên, hiện nay thị trường đang dần cái mở cửa và giảm bớt kiểm soát dịch Covid, điều này tạo điều kiện cho xuất nhập khẩu tốt hơn. Cùng với đó với chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường, tình hình mà dịch bệnh covid cũng giảm bớt tại nhiều quóc gia trên thế giới, những khó khăn về logistics, về vận chuyển được tháo gỡ, giá cước càng ngày càng càng giảm, càng rẻ thì việc xuất khẩu hàng rau quả của Việt Nam sẽ có nhiều cái thuận lợi.

“Trong năm 2023 với các mặt hàng, các thị trường mới mở ra thông qua những cái Nghị định thư, cũng như 15 FTA đã được ký kết chắc chắn sẽ tạo ra một cái động lực lớn cho xuất khẩu rau quả. Năm 2023 tăng trưởng ít nhất là 20 % so với năm 2022. Năm 2022 đạt 3,4 tỷ thì năm 2023 xuất khẩu rau quả có thể đạt 4 tỷ USD”, ông Đặng Phúc nguyên dự báo.

Nguồn: congthuong.vn

Quảng Nam: Đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhiều sản phẩm của hợp tác xã sản xuất

Nhiều hợp tác xã (HTX) thành lập mới, nâng cao chất lượng hoạt động, tích cực tham gia các sự kiện xúc tiến thương mại, thu hút nhiều sinh viên ra trường về làm việc… là những điểm sáng của lĩnh vực kinh tế tập thể, HTX tỉnh Quảng Nam trong năm 2022.


HTX năng động liên kết sản xuất với doanh nghiệp để giải quyết đầu ra nông sản, nâng cao giá thành sản phẩm cho nông dân. Ảnh: CT

Nâng lượng và chất

Theo ông Võ Bảy – Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã (HTX) tỉnh Quảng Nam, trong bối cảnh chung, việc vận động thành lập mới tổ hợp tác (THT), HTX năm 2022 rất khó khăn. Nhưng với sự phối hợp nhịp nhàng, đầy trách nhiệm giữa các ngành và địa phương, Liên minh HTX tỉnh tổ chức 14 lớp tuyên truyền, tư vấn quy trình, hồ sơ thủ tục và đã thành lập mới vượt chỉ tiêu giao với 65 HTX (chỉ tiêu 40 HTX) và 115 THT (chỉ tiêu 100 THT).

Kết quả này đưa Quảng Nam dẫn đầu trong các tỉnh, thành phố về số lượng THT, HTX thành lập mới. Không những vậy, sau đại dịch COVID-19, hoạt động của lĩnh vực kinh tế tập thể (KTTT) có bước phục hồi đáng ghi nhận, chất lượng nâng lên, qua khảo sát có khoảng 60% HTX, THT đạt khá, tốt.

Năm nay, công tác tuyên truyền, tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động được Liên minh HTX tỉnh đẩy mạnh, tổ chức 5 hội nghị tuyên truyền các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, HTX của trung ương và của tỉnh; 9 lớp tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng cho cán bộ HTX; 2 lớp tuyên truyền bảo vệ môi trường; 2 lớp về chuyển đổi số trong HTX.

Lãnh đạo các HTX và cán bộ liên minh cũng được cử đi học tập kinh nghiệm mô hình HTX ứng dụng công nghệ cao, sản xuất gắn với chuỗi giá trị sản phẩm tại Đắc Lắc, Khánh Hòa, Bình Định, Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Trị. Ngoài duy trì phối hợp xây dựng chuyên trang “Kinh tế hợp tác” trên Báo Quảng Nam, Liên minh HTX tỉnh kịp thời đăng tải, cập nhật thông tin thời sự liên quan đến KTTT; nội dung hoạt động của đơn vị trực thuộc và văn bản lên trang thông tin điện tử.


Bí thư Tỉnh ủy Phan Việt Cường tham quan gian hàng trưng bày của HTX Best One (Tam Kỳ) tại sự kiện Teshfesh Quảng Nam 2022. Ảnh: C.T

Hoạt động tư vấn, hướng dẫn HTX xin hỗ trợ thu hút lao động trẻ về làm việc và chính sách tín dụng theo Nghị quyết số 25 ngày 22/7/2021 của HĐND tỉnh, Quyết định số 2406 ngày 23/8/2021 của UBND tỉnh được đẩy mạnh. Chính vì vậy, đầu năm 2022 đã thu hút 29 lao động trẻ có trình độ về làm việc tại HTX.

Và mới đây, những người có trách nhiệm tiếp tục xét duyệt 46 hồ sơ của sinh viên cao đẳng, đại học tốt nghiệp ra trường để “đầu quân” cho các HTX. Ông Võ Bảy cho biết, lực lượng lao động có trình độ này cam kết làm việc ít nhất 5 năm và hứa hẹn sẽ là đội ngũ cán bộ kế cận chất lượng.

Trợ lực hiệu quả

Năm 2022, nhiều gian hàng sản phẩm do HTX của Quảng Nam sản xuất đã được trưng bày, xúc tiến thương mại tại các sự kiện lớn như Teshfesh Quảng Nam, Ngày hội xúc tiến thương mại và hội thi HTX tiêu biểu khu vực miền Trung – Tây Nguyên, Hội chợ xúc tiến thương mại hành lang kinh tế Đông – Tây tại Đà Nẵng hay như Hội chợ Thương mại hữu nghị Lào – Việt (tổ chức ở tỉnh Sê Kông, Lào).

Theo Liên minh HTX tỉnh, riêng năm 2022, đơn vị hỗ trợ 24 HTX có sản phẩm OCOP 3 sao, 4 sao tham gia Ngày hội xúc tiến thương mại và hội thi HTX tiêu biểu khu vực miền Trung – Tây Nguyên; 11 HTX tham gia Hội chợ xúc tiến thương mại hành lang kinh tế Đông – Tây; 14 HTX có mặt tại Hội chợ xúc tiến thương mại do Liên minh HTX Việt Nam tổ chức tại Gia Lai. Liên minh còn hỗ trợ HTX tham gia các ngày hội xúc tiến thương mại trong chuỗi sự kiện Năm du lịch quốc gia – Quảng Nam 2022 mà các sở, ngành thực hiện.

Giải bài toán thiếu nguồn lực đầu tư cho chiến lược kinh doanh của THT, HTX, Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh tiếp tục xét duyệt, giải ngân vốn vay ưu đãi. Dự kiến cuối năm nay, quỹ sẽ hoàn thành chỉ tiêu giải ngân 40 tỷ đồng.

Với nguồn vốn hoạt động 105 tỷ đồng, Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh được Liên minh HTX Việt Nam đánh giá tốt nhất khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Trên lĩnh vực đối ngoại và hợp tác quốc tế, Liên minh HTX tỉnh tiếp tục làm việc với dự án ILO, UNESCO, Agriterra triển khai thực hiện nhiều hoạt động thiết thực, đạt chất lượng.

Ông Võ Bảy chia sẻ, công tác lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác của Liên minh HTX tỉnh luôn bám sát chỉ tiêu, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, phê duyệt trong năm 2022.

Đơn cử, đơn vị đã phối hợp, tham mưu Tỉnh ủy, UBND tỉnh tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 13 ngày 18/3/2002 của Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; tổng kết 10 năm thi hành Luật HTX năm 2012 và góp ý dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật HTX mới.

Đơn vị còn tổ chức thành công lễ kỷ niệm 10 năm thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển HTX tỉnh; hội nghị tuyên dương, khen thưởng các HTX điển hình tiên tiến giai đoạn 2020 – 2022 và kỷ niệm Ngày HTX Việt Nam 11/4/2022…

Với sự nỗ lực của mình, Liên minh HTX tỉnh đã hoàn thành xuất sắc khối lượng công việc vạch ra, góp phần đưa KTTT, HTX ngày càng chuyển biến đi lên.

Nguồn: vca.org.vn